Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 43/c
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (IV)
ĐẠI CHÚNG
--------------------------
PHẦN V: THỐNG NHẤT
“Chính qua cuộc đấu tranh
nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn
nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành
con mồi của ảo vọng”.
A. Anhxtanh
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy
cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
Upanishad
CHƯƠNG III: THỰC - ẢO
“Tự nhiên không làm bất cứ
việc gì vô ích”.
Hêrôn
“Ôi, sự tất yếu diệu kỳ (…), mọi hành động
tự nhiên đều tuân theo ngươi bằng con đường ngắn nhất”.
Léonard de
Vinci
“Vũ Trụ như một trò chơi ảo tượng khổng lồ chứa đầy các ảo ảnh thách
thức trí tưởng tượng của chúng ta. Thật nghịch lý, chính một phần nhờ vào những
nghiên cứu về các ảo ảnh Vũ Trụ
này mà chúng ta hiểu chính xác hơn về hiện thực”.
Trịnh Xuân Thuận
(tiếp theo)
Dễ dàng thấy rằng,
mối quan hệ nghịch đảo chỉ phụ thuộc
vào R và trong trường hợp lý tưởng, khi R bất biến thì mối quan hệ đó cũng bất
biến (là tất định mà Tạo Hóa đã an bài!). Chúng ta nghĩ rằng nhờ có tính liên
thông, chồng chập của Không Gian, và tính chất ấy biểu hiện ra trong hiện thực
hình học mà chúng ta thấy được “quang cảnh” mô phỏng ở hình 6/a. Tuy nhiên vì
khoảng cách OA là khoảng cách thực nên nó phải nằm trong miền thực và do đó lúc
này hình tròn tâm O (hạt KG) phải được thấy như là điểm O. Trái lại, vì OA’ là
khoảng cách ảo nên phải thuộc miền ảo và do đó, hạt KG lúc này phải được thấy
như hình tròn tâm O. Mặt khác, vì đồng thời sự phân định ảo - thực tuyệt đối của
Không Gian cũng lại không cho phép hai miền đó xâm nhập vào nhau cho nên trong
hiện thực khách quan (tiêu biểu là trong hiện tượng phản xạ ánh sáng ở gương cầu),
thực sự cũng không thể thấy được bằng quan sát trực giác phần trong miền ảo của
khoảng cách OA. Lúc này mối quan hệ sẽ biến tướng
thành mối quan hệ giữa AT và A’T thông qua R. Nếu gọi lần lượt khoảng cách AT và
A’T là X và Y thì vì:
Nên:
Suy ra:
Và: A’T được gọi
là ảnh ảo của khoảng cách thực AT.
Những biểu lộ của
Tự Nhiên bị “lu mờ” đi nhiều trong mối quan hệ đã bị biến tướng (bởi sự can thiệp chủ quan). Vì lẽ đó,
chúng ta “không thèm chơi” với nó, và vẫn “ôm ấp, vuốt ve” mối quan hệ , nhưng vẫn “mượn” điểm T để “tán dóc”,
trong cái quang cảnh chồng chập, kỳ ảo ở hình 6/a
Giả sử, trên đường
thẳng a, chúng ta cho điểm A tiến tới điểm T. Phép nghịch đảo cho thấy điểm A’
cũng tiến tới điểm T một cách đối ứng. Khi A trùng với T thì A’ cũng trùng với
T. Điều này cho thấy gốc tương phản ảo - thực của A và A’ cũng phải là điểm T.
Biết rằng sự tương phản ảo - thực tuyệt đối bao gồm cả tương phản nghịch đảo
tuyệt đối và tương phản âm – dương tuyệt đối, cho nên, nếu điểm O đã là gốc của
tương phản nghịch đảo tuyệt đối (nổi trội) thì điểm T phải là gốc của tương phản
âm – dương tuyệt đối (nổi trội)
Khi A và A’ trùng
với T thì có nghĩa rằng trong biểu hiện tương phản âm – dương tuyệt đối, có thể
viết:
Còn trong biểu
hiện tương phản nghịch đảo tuyệt đối, rõ ràng là:
OA=OA’+R,
để thỏa mãn
quan hệ bất biến:
OA.OA’=R2
hay có thể viết
dưới dạng:
Khi điểm A đã
trùng với điểm T rồi (và đồng thời điểm A’ cũng trùng với điểm T), thì nó có thể
tiếp tục vượt qua T để tiến về miền ảo (đồng thời điểm A’ tiến vào miền thực)
hay không? Dù là trong hiện thực có phô bày hiện tượng chồng chập Không Gian thì
điều đó cũng không thể xảy ra vì xét về mặt lực lượng Không Gian thì chúng là đại
diện cho hai miền ảo - thực tuyệt đối, không thể xâm nhập vào nhau được. Cũng có
thể hiểu thế này: dù sao thì tính nước đôi của Tự nhiên Tồn tại vẫn cho phép hiện
tượng đó xảy ra, nhưng khi điểm A vượt qua T thì ngay lập tức nó đã chuyển biến
thành điểm A. Có thể lấy hiện tượng phản xạ ánh sáng trong hiện thực khách quan
làm “thần tượng” cho ý niệm này.
Trong hiện thực
chồng chập không gian, điểm T được thấy là vị trí “gặp gỡ” của A và A’ trong quá
trình tiến về phía nhau và cũng được coi là điểm kết thúc có tính giới hạn của
quá trình ấy. Trực quan cho thấy khi A và A’ tiến đến T, khoảng cách thực
(trong miền thực - Vũ Trụ) ngày càng ngắn lại và khoảng cách ảo (trong miền ảo
- nội tại hạt KG) ngày càng dài ra. Sự ngắn, dài dần ấy của hai khoảng cách là
có hạn độ chứ không thể vô hạn được và đạt đến tột độ (không thể ngắn hơn được
nữa và không thể dài hơn được nữa) khi chúng cùng bằng R. Đây là một bộc lộ phi
thường đầu tiên mà chúng ta thấy được. Trong Vũ Trụ, bất cứ một quá trình rút
ngắn khảng cách nào, hay (tạm gọi là) quá trình tiến đến vô cùng gần nào, về mặt tuyệt đối đều không thể là vô hạn độ được,
nghĩa là khoảng cách ngắn nhất, đóng vai trò đơn vị độ dài tuyệt đối là thực sự
tồn tại. Trong Vũ Trụ khi quá trình A tiến tới T được gọi là quá trình tiến tới
vô cùng gần thì ngược lại, quá trình A’ tiến tới T trong nội tại hạt KG lại phải
được thấy như quá trình tiến tới vô cùng xa, hay khoảng cách OA’ tăng ra đến vô
cùng dài và mọi quá trình như thế đều không thể vô hạn độ được. Nội tại hạt KG
thì cũng là Vũ Trụ nếu chúng ta “ở đó” (mà thực ra chúng ta đang ở đó dù đang ở
đây!), cho nên có thể khẳng định trong Vũ Trụ thực sự tồn tại khoảng cách hữu hạn,
dài nhất tuyệt đối.
Kể ra thì cũng
khó lòng “nuốt trôi” nổi những “luận điệu có vẻ vu khống” vừa nêu đối với những
ai chưa vượt thoát khỏi sự chiêm nghiệm trong “nhà tù” hiện thực hình học vĩ mô
Ơclit. Họ đâu có biết rằng còn có một “hiện thực hình học” nữa là anh em với hình
học vĩ mô Ơclit, cũng thuần khiết và tuyến tính như thế, được gọi là “Hình học
vi mô Ơclit”. Nếu gọi nó là một “cõi hoang đường” thì cũng chẳng sai nhưng đừng
vội cười nhạo vì ở một góc độ nào đó, hiện thực khách quan mà con người đang
quan chiêm cũng hoang đường không kém một tý tẹo nào!
Trong “hiện thực
hình học vi mô Ơclít”, không có hiện tượng chồng chập không gian, nghĩa là khoảng
cách thực (đoạn OA) không được xâm nhập vào miền ảo (bên trong đường tròn tâm
O). Qui ước của Ơclít về điểm và đường thẳng trong hiện thực hình học ấy vẫn được
sử dụng để tượng trưng cho khoảng cách và vị trí vì thực chất lúc này, điểm và đường
phải có nội dung, nghĩa là khi bàn luận đến những biến đổi hình học, không đươc
bỏ qua tính thực thể không gian của chúng nếu chúng gây ảnh hưởng đáng kể đến kết
quả khảo sát.
Theo quan niệm
của triết học duy tồn thì trong Vũ Trụ, điểm thực thể nhỏ nhất tuyệt đối chỉ có
thể là hạt KG. Khi đưa quang cảnh ở hình 6/a vào cõi hoang đường thì ở miền thực
(miền ngoài), điểm thực thể cực tiểu chính bằng “kích cỡ” đường tròn tâm O. Nếu
A là vị trí tâm của điểm thực thể nhỏ nhất (hạt KG) thì trong hiện thực vi mô Ơclit,
nó không thể ở đó được, và để tương ứng với vị trí trong hiện thực vĩ mô Ơclit,
nó phải dời đến điểm A1, sao cho:
A1T=OA=R+x
Lúc này điểm A
(gọi là điểm phi thực tế hay điểm hình học thuần túy) coi như nằm trên biên của
hạt KG có tâm là A. Khi vị trí của hạt KG “dời” đến A1 thì ảnh ảo tương
phản tuyệt đối của nó cũng phải “dời” đến A1’ và điểm A được coi là
nằm trên mặt biên của hạt KG ảo tương phản tuyệt đối của hạt KG thực có tâm A1.
Tuy nhiên chớ lầm lẫn hạt KG thực có hình cầu thì hạt KG ảo trong tương phản
tuyệt đối với nó cũng có hình cầu, và do đó, để khỏi ngộ nhận, chúng ta tạm gọi
điểm A1’ là điểm bất động hay trọng tâm của hạt KG ảo.
Đến đây, chúng
ta đã dễ dàng cảm nhận hơn, vì sao mà khi A và A’ tiến đến trùng với T, nghĩa là
khi OA’ đạt đến R thì OA (chính là A1T ở miền thực) cũng đạt đến R.
Hai hạt KG trong Vũ Trụ không bao giờ có thể xâm nhập vào nhau được dù về mặt tương
tác, chúng có thể gây cảm ứng, kích thích lẫn nhau (và phải chăng đây cũng là
nguyên nhân làm chúng ta không giải thích được nhiều hiện tượng kỳ lạ trong Vũ
Trụ, đành phải “đổ vấy” cho Thượng Đế?!)
Vì R là khoảng
cách gần nhất có thể đạt tới của điểm A1 đối với một hạt KG, và nếu
lấy khoảng cách tâm của hai hạt KG làm đơn vị độ dài thì đó chính là đơn vị độ
dài nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ. Hay nói chính xác hơn là khoảng cách ngắn nhất
tuyệt đối trong Vũ Trụ trong trường hợp lý tưởng hóa hạt KG như một khối cầu hoàn
hảo, chính là đường kính của hạt KG. Ở đây, chúng ta có thể viết:
OA1=2R=D
Thế thì khoảng
cách dài nhất tuyệt đối của Vũ Trụ trong trường hợp lý tưởng mà chúng ta từng đề
cập đến là bằng bao nhiêu?
Muốn may ra trả
lời được câu hỏi đó thì trước hết chúng ta phải đưa quang cảnh hình 6/a trở về
trong hiện thực hình học vĩ mô Ơclit, rồi cho điểm A (lúc này đang ở T) “trượt
theo” đường thẳng a về phía vô cùng xa đối với đường tròn O. Tương ứng với quá
trình đó cũng xuất hiện quá trình điểm A’ (lúc này cũng đang ở T), ảnh tương phản
nghịch đảo tuyệt đối của nó trong miền ảo, tiến về phía tâm O.
Có một hiện tượng
gây tác động mạnh đến tư duy nhận thức là nếu cho trước một điểm ảo bất kỳ thì
bao giờ cũng xác định được dứt khoát vị trí điểm thực có mối tương phản nghịch đảo
với nó qua đường tròn tâm O, miễn là nó không trùng với điểm O. Không thể nào xác
định được điểm thực của O bằng con đường hình học.
Rất may, mối
quan hệ tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối là có tính bất biến, nên vẫn
có thể “phán đoán” được điểm thực của O.
Khi A’ tiến đến
O thì khoảng cách OA’ rõ ràng là ngày một ngắn dần nên có thể nói đó là quá trình
tiến đến vô cùng gần O, A’ và O là hai điểm hình học thuần túy thì A’ có thể trùng
với O (tương tự như trường hợp A’ trùng với T), nghĩa là khoảng cách OA’, về mặt
hình thức, có thể đạt tới bằng không. Khi A’ trùng với O thì bằng cách dựng hình
học thông thường trình bày ở hình 6/a, sẽ làm xuất hiện đường thẳng a’ song
song với đường thẳng a, do đó cũng không thể xác định được điểm thực trong mối
quan hệ tương phản nghịch đảo tuyệt đối với nó. Tuy nhiên, để không làm phiền lòng
Đấng Tạo Hóa, nghĩa là phải tuân thủ luật bất biến hay tất định, thì phải có điểm
đó. Chúng ta gọi điểm đó là “điểm vô tận” (và hiểu theo nghĩa “ỡm ờ” là “tận cùng
của vô cùng xa”). Cũng chỉ là hình thức, có thể diễn tả mối quan hệ tương phản
nghịch đảo tuyệt đối trong trường hợp này:
Rõ ràng là ở đây,
“buộc” phải chấp nhận qui ước hai đường thẳng song song a và a’ gặp nhau ở vô tận
và điểm “gặp gỡ” ấy là điểm vô tận, điểm tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối
với điểm O.
Nếu “trời thương”
cho chúng ta lọt được vào đường tròn tâm O (nội tại hạt KG) để “nhìn tận mắt”
quá trình A’ tiến tới vô cùng gần O thì sẽ thấy hoàn toàn khác. Lúc đó, nội tại
hạt KG là Vũ Trụ, nghĩa là miền trong (ảo) đã biến thành miền ngoài (thực), và điểm
O mới là hạt KG (đóng vai trò là đường tròn tâm O). Như vậy, điểm A’ (đã chuyển
hóa thành A) dù “cố gắng” đến mấy chăng nữa thì cũng chỉ đến được mặt biên của
hạt KG ấy và nếu tính từ tâm của hạt KG đến điểm hình học thuần túy hình thức
A’ thì có khoảng cách là R, nghĩa là không thể “tiêu diệt” được khoảng cách
OA’.
Dù khoảng cách
OA’ không thể bị tiêu diệt được trong bất kỳ trường hợp nào thì ở góc độ như đã
trình bày ở trên, điểm A’ vẫn có thể đến trùng với điểm O và thậm chí là vượt
qua O để tiếp tục “tiến lên” theo phương đường thẳng a để đến trùng với điểm
T’. Trong miền ảo, nếu quá trình một điểm “đi” từ T đến O được thấy là quá trình
từ vô cùng xa trở về vô cùng gần đối với điếm O (đối với một hạt KG chọn trước
nào đó để khảo sát, vì theo quan niệm của triết học duy tồn thì bất cứ hạt KG nào
trong Vũ Trụ cũng đều có thể đóng được vai trò là tâm của Vũ Trụ!) thì quá trình
điểm đó từ O đến T’ là quá trình từ vô cùng gần “đi” đến vô cùng xa đối với điểm
O. Đó là hai quá trình trái chiều nhau. Hiện tượng đó cho phép quan niệm rằng,
khi một điểm xuất phát từ T, vượt qua O rồi đến T’, thì có nghĩa rằng nó đã thực
hiện gồm hai quá trình bộ phận tương phản nhau về chiều. Để có thể phân biệt
hai quá trình bộ phận ấy và nếu điểm đó là A’ thì khi vượt qua O nó sẽ bị “biến
tướng” thành điểm A” để biểu thị mối quan hệ giữa hai khoảng cách OA’ và OA” là
tương phản âm – dương hoàn toàn của nhau qua gốc O (lúc này đóng vai trò như điểm
hình học thuần túy, không có nội dung!), nghĩa là OA’- - OA”
Quá trình một điểm
“tiến thẳng” từ T, vượt qua O, để đạt đến T’ còn chỉ ra rằng khoảng cách cực đại
tuyệt đối có thể có trong miền ảo là:
D=2R
Khoảng cách đó
lại cũng là đường kính hạt KG lý tưởng trong miền thực và vì vậy đó cũng chính
là khoảng cách cực tiểu tuyệt đối của Vũ Trụ.
Do bị ràng buộc
chặt chẽ vào mối quan hệ bất biến của sự tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối
cho nên có thể coi quá trình điểm A’ xuất phát từ T, vượt qua O để đến T’ trong
miền ảo là ảnh đối ứng của quá trình điểm A xuất phát từ T, vượt qua điểm vô tận
để đến điểm T’ trong miền thực. Phải cho rằng đây là một hiện tượng phi thường
và rất kỳ dị. Với quan niệm tập hợp nối tiếp của các điểm tạo thành đường, và điểm
cũng như trường đều không có nội dung thì trong miền thực đường tròn tâm O cũng
như điểm vô tận đều là những điểm hình học thuần túy. Vì thế mà hai điểm đó phải
thuộc đường a và là hai bộ phận không thể tách rời của đường a. Như vậy, đường
a trong miền thực phải được thấy, chí ít cũng là một đường cong kín.
Khó mà tưởng tượng
nổi một tình huống “đơn phương” như thế. Bởi vì sẽ không thể biết lúc đó điểm vô
tận trên đường a nằm ở đâu trong cõi vô tận, phía “trên” hay phía “dưới”, phía
“sau” hay phía “trước”, phía “trái” hay phía “phải” của đường tròn tâm O, hơn nữa,
nếu thực sự là thế thì phải trả lời được câu hỏi: vì sao lại có sự ưu tiên lựa
chọn đó, và sự ưu tiên lựa chọn đó còn có đảm bảo cho đường tròn tâm O đóng vai
trò là trung tâm của sự phân định Không Gian thành hai miền tương phản ảo - thực
tuyệt đối nữa hay không. Thật là vô cùng khó khăn cho nhận thức nếu quan niệm đường
a là đường cong kín.
Hay phải chăng
sư suy lý dẫn đến quan niệm đường a là cong kín đã dựa trên một nhận định sai lầm?
Nếu “quan sát” (trong suy tư hoang tưởng!) theo những góc độ khác, sẽ thấy nhiều
sự kiện dẫn đến điều nghi vấn đó là đúng đắn, nghĩa là đường a không thể là một
đường cong kín. Chính phép tương phản nghịch đảo qua đường tròn cũng không “cho
phép” điều đó xảy ra.
Khi điểm A’ từ
T “vượt trùng dương” để đến O (được coi như một hải đảo ở giữa đại dương mênh mông
gọi là miền ảo) thì nó phải được thấy như một con thuyền, một con cá hay đại loại
là một thực thể biết trôi nổi một cách định hướng nào đó. Đến được sát hải đảo
O rồi thì nó mới biết rằng có những khó khăn không thể vượt qua nổi “con đường độc
đạo” O để tiếp tục “vượt trùng dương” phía bên kia đảo O, hòng cặp được bến bờ
T’ mà nó hằng mơ ước. Điểm A’ đành “phản xạ” trở về và gửi gắm “sứ mạng” đó cho
“anh em sinh đôi” của nó nhưng không phải nó, đó là điểm A”. Như vậy quá trình
A’ từ T đến O là quá trình A” từ O đến T’, Ở khía cạnh xa - gần, là hai quá trình
tương phản nhau, nhưng hoàn toàn độc lập nhau. Nếu sắp xếp lại một chút về mặt thời
gian sao cho quá trình A’ từ O “phản xạ” trở về T đồng thời với quá trình A”
t O tiến đến T’ thì chúng là hai quá trình
mà một cách hình thức, có thể qui ước là tương phản âm – dương tương đối về phương
chiều (véctơ) của nhau, nhưng không phải là ảo - thực của nhau (vì chỉ có thể là
thực – thực như nhau hay ảo - ảo_ như nhau!).
Khi có hai quá
trình của điểm A’ và A” đồng thời xuất phát từ T và T’ (từ hai vô cùng xa) đến
O (đến vô cùng gần) ở miền trong (miền ảo) thì có thể coi chúng là ảnh trong mối
tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối, tương ứng từng đôi một của hai quá
trình ở miền ngoài (miền thực) của điểm A và (giả dụ là) điểm B, xuất phát từ
hai vị trí vô cùng gần đường tròn tâm O tiến ngược chiều nhau theo phương đường
thẳng a để đến hai điểm ở vô cùng xa. Khi A’ và A” đạt đến O thì A và B cũng đạt
đến hai điểm vô cùng xa ấy. Điểm O thuần túy hhình học chính là ảnh chồng chập
của hai điểm thuần túy hình học vô cùng xa ấy. Có thể gọi chúng là hai điểm vô
tận thuần túy hình học và ký hiệu: là
Để đảm bảo cho
Tồn Tại được Tự Nhiên (nghĩa là không xảy ra mâu thuẫn nội tại), đồng thời để làm
cho những “đám” tuy thiển cận về quan sát trực giác nhưng quá ư sắc sảo về tư
duy trừu tượng như loài người, dù có muốn “cãi nhăng cãi cuội” thì rốt cuộc cũng
phải “cứng quai hàm” không còn bắt bẻ vào đâu được nữa, Đấng Tạo Hóa thiêng liêng
và toàn năng (nên cũng bình thường và thiểu năng!) đã không còn cách nào khác là
bày ra nguyên lý “ỡm ờ” nước đôi (vừa chân lý, vừa phi lý, là hai chân lý mà cũng
không phải cả hai!) trong vận động cũng như trong biểu hiện của Không Gian và vạn
vật - hiện tượng. Tuân theo nguyên lý ấy mà Vũ Trụ phải biểu hiện như một thực
thể duy nhất nhưng cũng không duy nhất, thống nhất nhưng cũng “phân ly”, có
trong có ngoài mà cũng không có trong lẫn ngoài, ảo hay thực thì cũng là thực
hay ảo, là cả hai mà cũng không phải cả hai. Trên hình 6/a, xét trong mối quan
hệ tương phản ảo - thực tuyệt đối, miền ngoài (của đường tròn tâm O) mặc nhiên được
chúng ta cho là miền thực vì đó là Vũ Trụ, nơi mà chúng ta, sự thực nhất của mọi
sự thực, đang hiện hữu, và như thế cũng mặc nhiên, miền trong (được bao kín bởi
đường tròn tâm O) phải là miền ảo. Tuy nhiên, xét theo một góc độ khác thì tự
nhiên; miền trong cũng không khác gì miền ngoài, hay có thể nói là “cùng một
giuộc”. Nếu có một giống loài biết tư duy trừu tượng như loài người tồn tại ở
miền trong và đang quan sát thế giới khách quan của họ, hay giả sử rằng chúng
ta “biến tướng” được và xâm nhập vào được miền trong, thì quang cảnh ở đó chẳng
khác gì miền ngoài (chẳng khác gì Vũ Trụ!). Vậy khi miền trong đường tròn tâm O
là thực (nghĩa là miền ngoài, Vũ Trụ) thì miền ngoài đường tròn tâm O phải là ảo
(nghĩa là miền trong, nội tại hạt KG). Lúc này, để tránh đi những cãi cọ không
cần thiết, không những vô bổ mà còn có thể dẫn đến thảm họa chiến tranh tương tàn
gây đau lòng Tạo Hóa, giữa chúng ta (những kẻ mang dòng máu hiếu chiến) và giống
loài biết tư duy trừu tượng nọ (những kẻ cũng ưa gây chiến không kém), miền ngoài
đường tròn tâm O “đành phải” biến tướng thành điểm thực thể O (hạt KG O).
Điều giả tưởng
trên đối với ai đó (suy nghĩ còn tỉnh táo) là nực cười vì quá hoang đường nhưng
đối với chúng ta (suy nghĩ đã bị hoang tưởng) thì lại thật sự nghiêm túc vì quá…
chí lý. Và chúng ta đi đến nhận định một cách “bất khuất” dù có thể ai đó lại
cho là “gàn rở”: Khi hình tròn tâm O được thấy là Vũ Trụ thì hai điểm tột cùng
gần T và T’ sẽ phải biến tướng thành hai điểm tột cùng xa và , ngược lại, khi Vũ Trụ được thấy là hình tròn tâm O (hạt KG)
thì hai điểm tột cùng xa và phải biến tướng thành
hai điểm tột cùng gần T và T’. Như vậy, điểm tận cùng xa và điểm tận cùng gần,
về mặt vị trí là có mối quan hệ vừa tương phản nhau vừa bình đẳng nhau, không điểm
nào có “giá trị” hơn điểm nào. Nếu một điểm là tận cùng xa so với “ở đây” thì nó
đồng thời là tận cùng gần so với “ở đó”, và ngược lại. Mặt khác, một cách trực
quan trên hình 6/a, có thể thấy khoảng cách TT’ chính là đường kính của đường
tròn tâm O và khi đường tròn tâm O được coi là hạt KG lý tưởng thì TT’ là khoảng
cách tận cùng ngắn hay đơn vị khoảng cách (và độ dài) nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ
Trụ. Lúc đó, vì “nằm trong” mối tương phản nghịch đảo tuyệt đối mà khoảng cách phải là khoảng cách lớn
nhất tuyệt đối của Vũ Trụ. Nếu đã “chắc như bắp”:
TT’=2R=D
là đường kính hạt
KG thì bằng bao nhiêu, có thể
xác định được không?
Chưa biết tình
hình sẽ như thế nào, nhưng với niềm tin “sắt đá” rằng hai khoảng cách cực hạn ấy
phải có liên quan đến biểu diễn toán học về sự tương phản ảo thực nghịch đảo
tuyệt đối (biểu diễn ) nên chúng ta
viết lại biểu diễn ấy:
OA.OA’=R2
Nếu chuyển sang
cách viết theo D (đường kính hạt KG) thì:
2OA.2OA’=D2
Viết như thế, sẽ
nảy sinh một ý niệm mới. Ở đây, để phù hợp với hiện tượng đồng thời tiến về hai
phía trong khi điểm O phải bất động, thì cụm từ “tiến đến vô cùng gần” (hay “vô
cùng xa”) là không đắc dụng. Phù hợp hơn, có lẽ nên dùng cụm từ “co rút lại đến
vô cùng nhỏ” của đoạn A’A”=2OA’, về O và cụm từ “dãn dài ra đến vô cùng lớn” của đoạn AB=2OA có tâm là O. Khi nói đến
“co” và “giãn” thì phải nghĩ đến “vận động”, mà vận động thì phải gắn liền với
“lực lượng” (Không Gian). Vì lẽ đó và cũng vì những ám chỉ ở nhiều hiện tượng
khác nữa, chúng ta cho rằng mối quan hệ giữa xa và gần, giữa dài và ngắn… thực
ra chỉ mang tính tương đối và được chúng ta rút ra từ cảm nghiệm trong hiện thực
khách quan của mình. Một cách tuyệt đối và nhất là trong mối tương phản ảo - thực
nghịch đảo tuyệt đối, những mối quan hệ ấy thuộc về mối quan hệ bao quát hơn,
khái quát hơn, đó là mối quan hệ giữa lớn và nhỏ, hay còn gọi là “mối quan hệ Đại
- Tiểu”. Trong mối quan hệ ấy, khi nói đến “vô cùng lớn” (VCL) thì nó đã hàm chứa
“vô cùng xa”, “vô cùng dài”, “vô cùng rộng”…, và khi nói đến “vô cùng nhỏ”
(VCN), thì nó đã hàm chứa “vô cùng gần”, “vô cùng ngắn”, “vô cùng hẹp”… Mặt khác,
có thể thấy rằng mối quan hệ Đại - Tiểu, đến lượt nó, cũng chỉ là bộ phận của mối
quan hệ tương phản ảo - thực. Khi mối quan hệ tương phản ảo - thực là tuyệt đối
thì mối quan hệ Đại - Tiểu thường là mối quan hệ tương phản nghịch đảo tuyệt đối.
Nghĩa là trong Vũ Trụ, một điểm thực muốn đến được trung tâm Vũ Trụ (vô cùng gần
tuyệt đối đường tròn tâm O) thì phải biến tướng thành VCN tuyệt đối (hạt KG),
hoặc muốn đạt đến “vía” Vũ Trụ (đạt được khoảng cách hay ) thì phải biến tướng thành VCL tuyệt đối (Vũ Trụ) để đảm bảo
cho ảnh của nó trong miền ảo cũng “được” biến tướng thành VCN hoặc VCL của miền
ảo một cách tương xứng theo tỷ lệ nghịch mà mối tương phản nghịch đảo tuyệt đối
đã “an bài”.
Thật là một ảo
tượng phi thường và không thể tin nổi!
Trong hiện thực
khách quan, không có bất cứ vật nào rời xa chúng ta (coi như là trung tâm Vũ Trụ)
lại to dần lên vì lý do đó cả, mà thậm chí, chỉ nhìn thấy như nhỏ dần đi và cuối
cùng là “mất hút con mẹ hàng lươn”. Hai vật rời xa nhau đều phải tự “phồng to”
dần lên chỉ vì sự xa nhau ấy, nếu có xảy ra, sẽ làm đảo lộn nhận thức của loài
người từ xưa đến nay về Tự Nhiên (có lẽ lúc đó không phải là Tự Nhiên nữa mà là…
chả biết là gì!). Thực ra, hiện tượng hai vật rời xa nhau trong hiện thực không
có liên quan gì đến mối tương phản đại - tiểu tuyệt đối. Hai vật đó, dù ở cách
xa nhau mấy đi chăng nữa thì kích thước của chúng vẫn không hề thay đổi vì sự
xa xôi ấy. Bởi vì dù xa xôi như vậy thì chúng vẫn ở trong một tầng nấc qui mô
không gian như cũ. Nếu muốn, chúng ta cũng có thể đưa hiện tượng ấy cùng với những
biểu hiện của nó vào mối quan hệ xa - gần, to - nhỏ, nhưng cũng chỉ có tính tương
đối và có phần chủ quan. Trên cơ sở chiêm nghiệm những biểu hiện có tính bản chất
của sự phát truyền ánh sáng cũng như cách thức tiếp thu ánh sáng của mắt người
(do cấu trúc sinh học và thích nghi tự nhiên mà có), con người đã phát hiện ra
một qui luật trong mối quan hệ giữa chủ thể quan sát và khách thể hiện thực, có
thể diễn tả được một cách hoàn hảo bằng hình học, cũng như nhờ nó mà nền hội họa
thời Châu Âu Phục hưng mới lột tả được sự thiêng liêng thần thánh một cách cực
kỳ lộng lẫy và bất hủ trong lịch sử. Qui luật đó được gọi với cái tên là “Luật
xa - gần”. Một vật hay một quang cảnh càng lùi xa hệ quan sát thì càng thấy như
bị thu nhỏ lại đối với hệ quan sát đó, và sự thu nhỏ ấy có quan hệ tỷ lệ thuận
với độ xa. Có đôi trai gái yêu nhau say đắm là luôn quấn quít bên nhau. Vì một
nguyên nhân bên ngoài nào đó buộc họ phải chia ly, dần dần rời xa nhau. Điều tự
nhiên là đôi trai gái còn yêu nhau đắm đuối ấy sẽ thấy nhau nhỏ dần đến “biệt vô
tăm tích” trong nỗi đau khổ mênh mông. Trong đời sống vẫn thường xảy ra cảnh ngộ
ấy nên dù có thương cảm thì cũng chẳng lấy gì làm lạ. Chỉ khi trong tình huống
bi phẫn ấy mà đôi trai gái bỗng cùng bật cười hô hố mới là chuyện lạ đời!
Tuy nhiên, nếu
bình tâm suy ngẫm một chút, chúng ta sẽ thấy trong hiện thực, không phải không
có những biểu hiện hàm ý về cái ảo tượng cực kỳ khó tin nhưng được suy ra từ sự
tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối mà chúng ta cho rằng nó thực sự đang
chi phối, ảnh hưởng đến tận gốc rễ mọi hoạt động của Vũ Trụ Thực Tại Khách
Quan. Trong một ngày bầu trời xanh biếc và đến một gợn mây cũng không có, chúng
ta nhìn lên đó. Hãy tưởng tượng rằng bầu trời là một vùng nào đó của rìa Vũ Trụ.
Nếu Đấng Tạo Hóa không muốn cho ta nhìn thấy vùng đó dù là một chút xíu, Ngài
chỉ cần dùng một tấm màn che dạng mặt cầu, cỡ bàn tay người áp sát vào mắt chúng
ta là đủ, chúng ta sẽ trở nên mù tịt. Nhưng nếu Ngài đưa tấm màn ấy ra xa mắt
chúng ta một chút xíu thôi thì ngay lập tức bầu trời xanh đã không còn bị che
khuất hoàn toàn nữa. Muốn tiếp tục che khuất hoàn toàn bầu trời xanh trước mắt
chúng ta, Tạo Hóa phải phù phép cho tấm màn đó giãn nở rộng thêm ra (dạng mặt cầu
của nó không đổi). Cứ thế, càng rời xa mắt, tấm màn đó càng phải giãn nở sao
cho nó luôn che kín thị trường của mắt (được coi như càng ra xa cũng càng nở rộng).
Khi tấm màn đó “đạt đến” áp sát bầu trời xanh thì nó phải giãn nở rộng bằng bầu
trời xanh, nếu Tạo Hóa khi đó vẫn còn muốn che giấu bầu trời xanh trước mắt chúng
ta. Nếu mắt chúng ta là một quả cầu thu được tín hiệu khắp “bốn bề” từ rìa Vũ
Trụ thì muốn che hoàn toàn rìa Vũ Trụ, tấm màn che đó phải là một mặt kín bao quanh
mắt mà khi ở sát mắt, nó sẽ là một mặt cầu có diện tích bằng với mặt cầu của mắt
và khi áp sát rìa Vũ Trụ, diện tích mặt cầu của nó sẽ bằng diện tích rìa Vũ Trụ.
Hiện tượng có tính
thực tế (dễ dàng cảm nghiệm trực quan) có thêm phần giả tưởng đó phải chăng là
một “lời tâm sự thầm kín” của Không Gian Thực Tại Khách Quan về cái “ảo tượng
co – giãn” trái khoáy nhưng thực tại vốn dĩ của Nó, có thể “thấy được” trong mối
quan hệ tương phản ảo - thực tuyệt đối (cũng vốn dĩ)? Nếu có một điểm thực thể đột
nhiên phát sáng, thì vì tốc độ truyền sáng c là bất biến ở mọi phương chiều cho
nên sau một khoảng thời gian t nào đó, sẽ thấy một mặt cầu phát sáng được lập bởi
“đầu mút” của các tia sáng, có bán kính là ct. Phải chăng đây là một “chỉ bảo”
rõ ràng hơn của Tạo Hóa về tính co – giãn huyền ảo của Không Gian Thực Tại
trong mối quan hệ tương phản Đại - Tiểu? Có thể nào chính sự chi phối có thực của
mối quan hệ ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối trong Không Gian, đã làm cho vật lý
học hiểu sai kết quả quan sát thiên văn đối với những tia sáng đến từ vô cùng
xa mà nó thu nhận được (hiện tượng dịch về phía đỏ của quang phổ) để rồi đi đến
một ngộ nhận tầm cỡ VCL này: Vũ Trụ được sinh ra bởi sự bùng nổ vĩ đại (Big
Bang) của một điểm thực thể VCN, không thể hiểu được nội tại của nó như thế nào
cho nên cũng vô cùng kỳ dị, và “âm vang” của vụ nổ ấy vẫn còn “vọng” tới ngày
nay dưới dạng một Vũ Trụ không những đang giãn nở mà còn giãn nở nhanh dần? Nếu
điều đó là sự thực thì toán học phải lãnh trách nhiệm chính vì dù đã phát hiện
ra hiện tượng tương phản ảo - thực nghịch đảo từ rất sớm nhưng đã không nhận thức
được ý nghĩa vô cùng thiêng liêng mà hiện tượng ấy hàm chứa.
“Sự huyên thuyên
phởn chí đã bắt đầu quá trớn rồi đấy! Hãy dừng ngay lại mà lo cho bản thân mình
đi! Đối với nền toán – lý hiện đại, các anh chỉ là những điểm hình học thuần túy
mà thôi. Coi chừng!”. Tiếng quát nghe rõ mồn một. Nhưng ai lại có thể mắng nhiếc
được chúng ta ở chốn mông lung biền biệt này được nhỉ? Chỉ có thể là… Tạo Hóa.
Nếu đúng thế thì chắc đỉnh núi Tu Di không còn… vô cùng xa nữa. Lời mắng mỏ làm
cho chúng ta vui sướng hẳn lên và ngoan ngoãn quay về chủ đề chính.
Vậy thì có phải là đường kính
của Vũ Trụ không? Trên hình 6/a, chúng ta thấy rằng có thể vẽ vô vàn đường thẳng
xuyên tâm đường tròn O tương tự như đường thẳng a. Như vậy, có thể hình dung điểm
O là ảnh chồng chập của vô vàn điểm ở tận cùng xa của nhiều thực (của Vũ Trụ).
Tập hợp những điểm đó, làm hình thành nên đường rìa Vũ Trụ, và trong trường hợp
lý tưởng thì đường rìa đó chính là đường tròn, nhận đường tròn tâm O làm trung
tâm (điểm bất động, trọng tâm) của nó. Vậy, phải cho rằng khoảng các chính là đường kính của
Vũ Trụ trong trường hợp lý tưởng. Trong mối quan hệ ảo – thực nghịch đảo tuyệt đối,
nếu đường kính hạt KG là cực tiểu và bất biến thì đường kính Vũ Trụ là cực đại
và cũng bất biến. Thật là khó khăn biểu diễn toán học về sự tương phản ảo - thực
nghịch đảo tuyệt đối trong tình huống cực hạn này. Nhưng nếu tìm được cách biểu
diễn và xác định chắc chắn được đường kính hạt KG là bao nhiêu thì việc xác định
đường kính Vũ Trụ sẽ “nằm trong bàn tay”.
Có thể quan niệm
điểm O chính là hạt KG ảo của Vũ Trụ ảo (miền trong đường tròn tâm O). Chúng ta
ký hiệu đường kính của nó là Dh. Khi khoảng cách TT’ bị thu hút đến cực tiểu của miền ảo và
không thể bằng không được, tất yếu nó phải bằng Dh. Để cho gọn và đẹp thì chúng ta cũng đưa ra một ký hiệu cho đường
kính Vũ Trụ (khoảng cách cực đại của miền thực) là DV. Như thế, rõ ràng chúng ta sẽ viết được:
DV.Dh=D2
Viết như trên sẽ
làm cho D đỏ mặt tía tai rồi phùng mang trợn mắt cự: “Thế thì coi trẫm là gì và
cho trẫm ở đất nào?”. Nếu có thể thì chúng ta sẽ cười ruồi, một khoanh tay lại,
một tay chống nạnh, vừa thưa bẩm cung kính, vừa quát nạt thô bạo rằng: “Muôn tâu
Bệ hạ, Ngài chính là Thượng Đế trị vì trong cõi ảo và… ê, thằng oắt con kia, mày
chỉ là một trong vô vàn thằng nhóc nhỏ nhất lang thang khắp đầu đường xó chợ
trong cõi thực. Này D, chúng tớ nói cho nghe này: đã mang danh “Quân” thì ở đâu
cũng là “Quân” cả, nhưng khi ở cõi ảo thì “Quân” có nghĩa là “vua” và khi ở cõi
thực thì “Quân” lại chỉ có nghĩa là “tên lính quèn”, hiểu chưa?”.
Đúng vậy, có thể
trực quan được một cách không khó khăn lắm về vai trò nước đôi của đường tròn tâm
O. Khi nó phân định mặt phẳng thành hai miền trong – ngoài một cách “dứt khoát”
thì không biết bản thân nó thuộc miền nào. Vì thể chất “tích tụ” nên đường tròn
đó, y hệt như miền trong cũng như miền ngoài, phải là Không Gian chứ không thể
là cái gì khác, cho nên nó cũng chỉ là một bộ phận của mặt phẳng, thuộc về mặt
phẳng ấy như miền trong và miền ngoài. Nhưng để phân biệt “dứt khoát” được miền
trong và miền ngoài thì nó cũng buộc phải khác hai miền ấy. Sự đồng thời cùng một
lúc phải thể hiện hai yếu tố (giống và không giống cả miền trong lẫn miền ngoài
làm cho đường tròn tâm O mang tính hai mang: vừa “hao hao” giống miền trong, vừa
“hao hao” giống miền ngoài để (giả sử rằng) khi không có miền trong thì nó thuộc
miền ngoài và ngược lại, khi không có miền ngoài thì nó thuộc miền trong. Hay
như thường lệ, chúng ta hô: đường tròn tâm O phải thuộc miền ngoài hoặc miền
trong, thuộc về cả hai miền đó, đồng thời chẳng thuộc miền nào.
Nếu sự phân định
trong – ngoài ở hình 6/a được coi là biểu diễn mối tương phản ảo - thực nghịch đảo
tuyệt đối thì phải đi đến nhận thức rằng, khi miền ngoài là Vũ Trụ thực, hình
tròn tâm O phải đóng vai trò là hạt KG thực, thuộc về miền ấy. Lúc đó, D phải
thể hiện là khoảng cách cực tiểu tuyệt đối của Vũ Trụ và vì thế mà tạm coi hạt
KG không có nội tại. Khi coi miền trong là Vũ Trụ thực thì nó biến tướng thành
miền ngoài, còn miền ngoài chuyển hóa, biến tướng thành điểm thực O. Lúc này điểm
O chính là hạt KG thực của Vũ Trụ thực, có đường kính là Dh, còn D thì bằng DV - khoảng cách cực đại
tuyệt đối của Vũ Trụ, đồng thời cũng là độ dài của đường kính Vũ Trụ.
Có thể rằng phải
nhận thức như trên mới hiểu thấu được nội dung lớn lao của biểu diễn toán học . Toán học là một hướng cực kỳ quan trọng
trong quá trình nhận thức Tự Nhiên Tồn Tại của loài người, thậm chí là đóng vai
trò quyết định đến vận mệnh của quá trình ấy. Toán học được con người chủ quan
sáng tạo ra trên cơ sở chiêm nghiệm hiện thực khách quan, trong sự “hối thúc” của
Tự Nhiên. Nhưng để có được cuộc sáng tạo vĩ đại ấy, công đầu phải thuộc về sự vạch
đường, mở lối, chỉ bảo tỉ mỉ và tận tình của Đấng Tạo Hóa. Cũng vì thế mà trong
số những biểu diễn toán học đúng đắn, có những biểu diễn dù có vẻ tầm thường đến
mấy bởi sự đơn sơ, hiển nhiên của chúng thì cũng chẳng… tầm thường chút nào. Không
ít biểu diễn toán học có tầm vóc lớn lao đến không thể ngờ trước cái bề ngoài
dung dị của chúng. Chúng ta cho rằng biểu diễn toán học là thuộc loại đó. Nó được xây dựng nên một
cách hiển nhiên khi người ta phát hiện ra tính biến đổi hình học qua đường tròn
(phân định thành hai miền trong – ngoài). Trong Vũ Trụ hình học, người ta có thể
cho OA’=0 và lúc đó . Nói chỉ có thế và từ lâu nó đã trở nên tầm thường và “lưu lạc đâu đó” trong kiến thức
hình học sơ cấp. Tuy nhiên, đối với chúng ta, trong cái lớp áo “quê mùa cục mịch”
đó là cả một biểu lộ phi thường về “quang cảnh” Không Gian Thực Tại mà Tạo Hóa đã
“gửi gắm”. Rất có thể rằng biểu thức không chỉ đóng
vai trò là công thức cơ bản, chủ đạo trong phép biến đổi hình học nghịch đảo
qua đường tròn, mà còn có mối quan hệ khăng khít, thậm chí ở một góc độ sâu xa
hơn, có vai trò tiền đề đối với nhiều biểu diễn trong vật lý học như nguyên lý
cân bằng, định luật vạn vật hấp dẫn, định luật Culông…
Trên cơ sở của
biểu diễn toán học và quan niệm của
triết học duy tồn về Không Gian Thực Tại mà chúng ta rút ra được biểu diễn toán
học và gọi la trường
hợp cực hạn. Nếu là đúng đắn thì
đó là thành tích “oách” nhất mà chúng ta đạt được từ trước đến nay trên bước đường
hành quân đi chinh phục đỉnh Tu Di huyền thoại.
Chúng ta từng ký
hiệu đơn vị độ dài nhỏ nhất tuyệt đối là và đơn vị độ dài
lớn nhất tuyệt đối là I. Chỉ với ý nghĩa là đơn vị thì có thể coi cả hai đơn vị
trên đều bằng 1 (của toán học). Cũng vì D có tính hai mang mà từ biểu diễn có thể suy ra được:
Có thể là do
qui ước chủ quan của tư duy nhận thức, nhưng đồng thời không phải hoàn toàn do
qui ước mà chính là do mối quan hệ tất định nào đó trong Không Gian Thực Tại, DV và Dh có giá trị tuyệt đối dược
biểu diễn khác 1 (chẳng hạn là 96; 2, 3, 800…). Nhưng dù có thế chăng nữa thì tình
hình đó cũng không được xâm phạm mối quan hệ tất định và bất biến mà biểu diễn đã thể hiện. Vì lý do đó, để D phải biểu
diễn tính đơn vị (bằng 1). Và đóng vai trò làm mốc tương phản nghịch đảo, thì DV phải có hình thức là:
DV=D*.10k (nghĩa là I=10k)
(với k là một số
tự nhiên khác O nào đấy, D* được gọi là số đại diễn trị số thực của đường kính
Vũ Trụ).
Và:
(với là số đại diễn trị thực
của đường kính hạt KG).
Cuối cùng thì
chắc chắn phải viết được:
Vậy, khi đã xác
định được đường kính hạt KG (khoảng cách cực tiểu) thì sẽ xác định được đường kính
Vũ Trụ (khoảng cách cực đại), và ngược lại.
Khi đã biết được
đường kính Vũ Trụ thì về mặt lực lượng thực thể, có thể tính ra được thể tích của
toàn Không Gian. Nếu gọi thể tích của Vũ Trụ là VV, sẽ có:
VV=V*.103k (với V* là số đại diễn thể tích Vũ Trụ).
Tuy nhiên, đó
chưa phải là thể tích toàn phần của Không Gian. Nếu vế trái của biểu diễn là phần
thể tích thực thì vế phải tượng trưng cho phần thể tích ảo của Không Gian. Gọi VTP là thể tích toàn phần
của Không Gian thì:
VTP=2VV
Khi cho k = 0
thì coi như mối tương phản ảo - thực tuyệt đối không thể hiện tính nghịch đảo nữa
(vì đã lặn khuất) mà thể hiện tính âm – dương (đã trở nên nổi trội). Lúc này thể
tích toàn phần của Không Gian chính là tổng của hai thành phần tương phản ảo -
thực âm – dương tuyệt đối của nó. Nghĩa là phải có:
Như vậy:
Viết được như
thế là vì Không Gian huyền ảo vô cùng mà bảo toàn tuyệt đối, tương phản “gớm ghê”
mà cũng thống nhất “chắc nịch”.
Dù trong hiện
thực khách quan, vĩnh viễn không thể nào quan sát trực tiếp được sự tương phản ảo
- thực tuyệt đối của Không Gian, thì vẫn có thể “thấy” được nó một cách rõ ràng
bằng suy lý, hoang tưởng và linh cảm. Nhận thức của loài người trước sau gì cũng
đạt đến chân chính, và lúc đó, coi như loài người đã tiếp cận được Tự Nhiên Tồn
Tại, diện kiến được Đấng Tạo Hóa thiêng liêng để xem Ngài có phải là Thượng Đế
toàn năng như quan niệm từ xưa đến nay hay không.
Đến đây, câu hỏi:
Vũ Trụ là hữu hạn hay vô hạn, có lẽ đã được trả lời. Nhưng chúng ta muốn nói thêm
chút nữa. Trong Vũ Trụ hình học, sự tưởng tượng chủ quan vẫn cho phép Dh hay Vh bằng quan hệ tương phản
ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối vẫn tồn tại, nghĩa là (nhắc lại) phải viết được:
(bằng Vũ Trụ hay hạt
KG bình phương).
Khi D được thấy
là 1 (hay I) thì:
(hay I2)
Hay có thể phát
biểu: tương phản nghịch đảo tuyệt đối của “không có gì” là vô hạn độ (vô tận).
Cần phải hiểu điều đó như thế nào cho “phải đạo”?
Trong mối tương
phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối, số 0 biểu diễn sự “không có gi” tuyệt đối
và đó chính là Hư Vô (hư vô tuyệt đối), còn số lại biểu diễn sự “có tất
cả” tuyệt đối và đó chính là Tồn Tại (tồn tại tuyệt đối). Nếu lấy Hư Vô nhân với
Tồn Tại thì rõ ràng là phải “có một cái gì đó” chứ không thể là “không có gì”.
Trong mối tương phản ảo - thực, âm – dương tuyệt đối thì Hư Vô cũng phải có lực
lượng (dù là lực lượng của cái gọi là “không có gì tuyệt đối”), sao cho:
=0
hay
Tồn Tại = Hư Vô
Nghĩa là: vô cùng
về phía VCL là tương đương với vô cùng về phía VCN, hay Tồn Tại là tương đương
với Hư Vô. Thậm chí, có thể nói và 0 là những chỉ thị
về cùng một miền không gian, do nhận thức chủ quan mà miền đó có hai ký hiệu. Nếu
0 biểu hiện nổi trội về tính hữu hạn thì biểu hiện nổi trội về
tính vô hạn. Hơn nữa, còn có thể viết:
Như vậy, phải đi
đến quan niệm rằng, trong quá trình nhận thức tư duy của con người đã buộc phải
lũng đoạn sự thực khách quan, tự làm khó mình, nhưng nhờ có như thế, tư duy mới
đạt được nhận thức chân chính về sự thực khách quan: Hư Vô thì vẫn là Tồn Tại,
vô tận thì cũng bằng không, chúng có thể “đổi chỗ” cho nhau tùy vào “ý thích” của
tư duy trừu tượng. Giả sử rằng một thực thể có thể vượt ra “ngoài” rìa Vũ Trụ,
thì coi như nó đã ở trong cõi vô tận. Vì không ở miền thực nữa nên thực thể đó
phải biến tướng thành ảo thể (thực thể của miền ảo) bởi qui định của mối quan hệ
tương phản ảo - thực tuyệt đối chứ không thể biến tướng thành cái gì khác. Nghĩa
là cõi vô tận cũng chính là miền ảo của Không Gian và chỉ có thể là nội tại của
hạt KG trong Vũ Trụ. Vì đã qui ước nội tại hạt KG là “cõi không” nên cõi vô tận
cũng là cõi không. Dù là cõi không thì đối với bản thân thực thể đó, vẫn được
thấy là cõi thực - Vũ Trụ. Nếu thực thể đó tiếp tục hành trình vượt qua rìa cõi
không mà đối với nó lúc đó là rìa Vũ Trụ, thì nó lại ở trong cõi vô tận và bị
biến tướng. Nếu quá trình cứ thế tiếp diễn không ngừng nghỉ thì đó chính là một
quá trình vĩnh cửu và cũng là vô tận. Có thể hình dung (hơi thô thiển!) rằng thực
thể đó hành trình trên một đường tròn độc đạo. Nếu có một điểm được đánh dấu trên
đường tròn thì thực thể sẽ thấy đường tròn là hữu hạn. Còn không, vì chẳng phân
biệt được nên nó sẽ phải thấy đường tròn là vô hạn. Vậy, chúng ta hãy hô to: “Vô
hạn”, thực ra là sự lặp lại của hữu hạn!”, và hãy thì thầm: “Kính thưa ngài
Pascal, câu hỏi: “Tại sao là phải có một cái gì đó chứ không phải không có gì?”
có tính truyền kiếp của ngài, hình như đã được trả lời rồi đấy ạ!”
Thông qua hiện
tượng biến đổi hình học một cách nghịch đảo qua đường tròn, mối tương phản ảo -
thực tuyệt đối của Không Gian Thực Tại biểu lộ ra cái “cá tính” phi thường như
vậy đấy! Nhưng không phải chỉ có thế mà còn nhiều nữa. Chúng ta tiếp tục phiêu
bồng trong hoang tưởng để chỉ ra thêm vài biểu lộ phi thường của nó nữa.
Trên hình 6/a,
có thể dễ dàng trực quan được là nếu có một đoạn thẳng (đóng vai trò thực thể)
hiện hữu trong miền thực, trên đường thẳng a thì ảnh ảo của nó cũng là một đoạn
thẳng trên đường thẳng a trong miền ảo (trong đường tròn tâm O) một cách tương ứng
(thỏa mãn phép nghịch đảo qua đường tròn). Có thể phát biểu: đường thẳng xuyên
tâm đường tròn phân định trong ngoài, ở bất cứ miền nào đều có ảnh là đường thẳng
ở miền kia.
Vậy thì đối với
những đường thẳng không xuyên tâm O, thậm chí là không cắt đường tròn O, điều
khẳng định trên còn đúng không? Không! Vì phép nghịch đảo qua đường tròn không
cho phép xảy ra điều đó. Hãy quan sát hình 6/b. Giả sử có đường thẳng c (thuần
túy hình học) cắt đường tròn tâm O tại hai điểm S và P. Nếu đường thẳng đó là
thuộc miền ngoài thì ảnh của nó sẽ như thế nào ở miền trong?
Để đỡ rối rắm,
chúng ta coi hình 6/b thuộc về Vũ Trụ hình học Ơclit vĩ mô (Không Gian Thực Tại
vĩ mô đã bị hình học hóa theo Ơclit), có sự hiện diện của mối tương phản ảo -
thực nghịch đảo tuyệt đối và do đó, tất cả các đường, điểm thể hiện trên đó đều
không có nội tại, nhưng vẫn phải ngầm hiểu đường tròn tâm O là biểu diễn hạt
KG.
Giả sử rằng chúng
ta vẽ đường thẳng c bắt đầu từ điểm S hướng về phía vô tận. Khi đạt đến điểm vô
tận ở miền ngoài (rìa Vũ Trụ), thì đường thẳng c không thể tiến triển được nữa
nếu muốn đoạn tiếp theo của nó vẫn là thực (nghĩa là đường thẳng c vẫn gồm những
bộ phận thuần nhất). Theo phép tương phản nghịch đảo qua đường tròn thì ảnh (ảo)
của quá trình ấy phải thuộc miền trong (nội tại hạt KG) và chính là đoạn cung
tròn có tâm O’. Nếu cố tình
cho đường thẳng c tiếp tục phát triển vượt ra khỏi biên của miền ngoài ở vô cùng
xa thì phần “vượt biên” của nó phải biến tướng thành ảo, nghĩa là đoạn phát triển
từ điểm vô tận đến P chỉ là ảnh ảo (miền ngoài lúc này cũng phải biến tướng thành
miền ảo) của quá trình thật trong nội tại hạt KG (lúc này miền trong được thấy
là miền thực - Vũ Trụ), bắt đầu từ O theo cung tròn có tâm O’ để đến P.
Về nguyên tắc,
chắc rằng Không Gian Thực Tại phải xử sự như thế. Nhưng ngay đối với chúng ta,
những kẻ vỗ ngực tự xưng là “những nhà hoang tưởng bạt mạng nhất từ trước tới
nay” cũng không thể tin nổi cái trực quan quá ư dị thường và có vẻ phi tự nhiên
ghê gớm đó. Đành phải quay sang ý niệm rằng Tạo Hóa đã vẽ vời ra cái “quái tượng
khủng khiếp” như vậy là để cảnh báo cho tư duy nhận thức về những điều cấm kỵ
nghiêm ngặt của Tự Nhiên, không được vi phạm, nếu không, tư duy nhận thức sẽ không
thể “bơi” được đến bến bờ chân chính, thậm chí có thể… phát điên.
Tương tự, nếu cố
tình phát triển đường thẳng c, vượt điểm S (lúc này đóng vai trò là điểm vô tận
của miền trong) để vào miền trong (nội tại hạt KG), đi qua điểm N’ đến P thì đoạn
thẳng SP phải biến ảo (là đoạn thẳng thực của miền ảo, miền mà lúc này cũng đã
biến tướng thành miền thực - Vũ Trụ). Đồng thời, đối với đoạn SP, để không xâm
hại được mối quan hệ tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối, miền ngoài cũng
phải biến tướng thành miền ảo – cõi vô tận của miền trong, và do đó ảnh ảo của
đoạn thẳng SP sẽ phải được thấy ở miền ngoài và đó chính là đoạn cung tròn có tâm O’. Đây cũng là
một “quái tượng khủng khiếp”!
Để làm Tạo Hóa
an lòng vì tin chắc rằng chúng ta đã hiểu ý Ngài, chúng ta phải “cực lực lên án”
sự tồn tại của hai quái tượng kinh dị đó. Muốn thế, chúng ta phải thừa nhận những
quan niệm sau đây:
1.- Dù là trong Vũ Trụ hình học vĩ mô Ơclit, khi
vẫn thấy điểm được chọn là tâm Vũ Trụ có nội tại (đường tròn tâm O) thì vì Vũ
Trụ đó bị mối tưởng phản ảo - thực tuyệt đối chi phối, cho nên qua một điểm
(thuần túy hình học) bất kỳ, không thể vẽ một đường thẳng thuần túy và liền lạc
nếu phương của nó cắt đường tròn tâm O mà không qua tâm O. (Do có hiện tương chồng
chập Không Gian mà đường thẳng xuyên tâm O vẫn được coi là đường thẳng thuần túy,
liên lạc và được coi là trường hợp đặc biệt: mọi đường thẳng xuyên tâm O đều là
đường kính Vũ Trụ). Trong Vũ Trụ hình học này, mọi đường thẳng thuần túy và liền
lạc (ở miền thực) đều bộc lộ rõ rệt tính hữu hạn của nó.
2.- Trong Vũ Trụ hình học vĩ mô Ơclit bị chi phối
bởi mối tương phản ảo - thực tuyệt đối, có thể vẽ được đường thẳng c thuần túy
nhưng gián đoạn tại S và P (hai điểm nằm trên đường tròn với tâm O – biên của
hai miền ảo - thực, bằng cách từ S và P cùng lúc vẽ hai (tạm gọi là) nửa đường
thẳng ra hai phía vô tận của miền thực một cách trùng phương (hay còn gọi là đồng
trục). Đó thực ra là hai quá trình độc lập so với nhau và ảnh ảo của chúng chính
là hai qúa trình độc lập so với nhau và ảnh ảo của chúng chính là hai quá trình
xuất phát từ điểm O, đến hai điểm S và P theo hai cung tròn và (độ dài tổng của hai
cung tròn này chính là độ dài của cung nằm trên đường tròn tâm
O’).
3.- Giả sử điểm M là đầu mút của một tia sáng xuất
phát từ điểm vô tận (rìa Vũ Trụ) truyền theo đường thẳng c đến đường tròn tâm
O, thì khi đến điểm S, vì không thể xâm nhập vào miền ảo, nên nó phải đổi hướng,
tiếp tục truyền thẳng đến một điểm vô tận khác, tuân theo luật phản xạ. Đến điểm
vô tận mới, vì cũng không thể xâm nhập được vào “cõi vô tận” (miền ảo) nên nó lại
bị phản xạ từ đó để truyền theo đường thẳng đến P theo luật đối xứng. Tương tự
như ở điểm S nhưng theo chiều ngược lại, tại P, M bị phản xạ trở lại, tiếp tục
truyền trong miền thực ra xa vô tận theo phương của đường thẳng c.
Hiện tượng điểm
sáng M từ S truyền đến vô tận rồi phản xạ về điểm P là một hoang cảnh kỳ dị không
thể minh họa được trong vũ trụ hình học vĩ mô Ơclít (xem hình 6/b). Tuy nhiên,
nếu suy lý trên cơ sở nguyên lý phản xạ ánh sáng và ảnh ảo của quá trình đó (được
hình thành nên từ sự tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối) thì lại không
thể bác bỏ được. Nghĩa là quá trình M từ S đến vô tận rồi phản xạ trở lại đến P
là một tất định trong Vũ Trụ hình học. Chúng ta cho rằng tình hình “tréo ngoe cẳng
ngỗng” ấy chính là biểu hiện về sự “bất hòa” giữa chiêm nghiệm chủ quan và sự
thực khách quan. Một trong những biểu hiện đặc thù và cơ bản của sự tương phản
nghịch đảo tuyệt đối là mối quan hệ Đại - Tiểu. Khi điểm sáng M tiến ra vô tận
thì do có sự giãn nở Không Gian bản thân M cũng dần “hóa thân” thành vô cùng lớn
(VCL). Chẳng hạn khi M từ điểm S tiến ra vô tận (hay từ vô tận về điểm O) thì
sau một khoảng thời gian t nào đó (hay trước khi đến P một khoảng thời gian t nào
đó), sẽ phải thấy M giãn nở (hay thu nhỏ) thành (minh họa tượng trưng trên hình
6/b một cách “thô bạo” và “áng chừng”, chưa được thẩm định bằng toán học) cung St (hay cung Pt).
4.- Nếu M từ S đến vô tận rồi phản xạ trở về đường
tròn tâm O, thì khi M từ P đến vô tận, nó cũng sẽ phản xạ trở về đường tròn tâm
O. Vậy, cụ thể điểm “va chạm” này là điểm nào? Nói vắn tắt thì điểm đó là điểm
P’ (xem hình 6/b). Hơn nữa, từ P’, M lại phản xạ đến vô tận, rồi phản xạ về điểm
S’, từ đó, tiếp tục phản xạ đến vô tận để rồi lại về S. Đó là một quá trình vĩnh
cửu trong Vũ Trụ hình học? Câu hỏi này chỉ Tạo Hóa mới có thẩm quyền trả lời!
Chúng ta chỉ nói qua loa thế thôi chứ không tìm hiểu kỹ “số phận” của M rồi sẽ đi
tới đâu, vì có lẽ cũng chẳng ích lợi gì. Ở đây, chúng ta giả dụ rằng M từ P khi
“đạt tới” vô tận rồi thì “kiệt sức” và “nằm” luôn ở đó. Ảnh ảo của quá trình điểm
sáng M từ vô tận đến S, từ vô tận đến P, rồi từ P lại đi ra vô tận, có thể thấy
được trong đường tròn tâm O (hình 6/b) là: M’ xuất phát từ O, đi theo lộ trình , để về lại điểm O
5.- Mọi hoang cảnh kỳ dị ở hiện thực như đã nêu sẽ
mất đi khi đường tròn tâm O cũng được thấy như điểm thuàn túy hình học thông thường,
nghĩa là trong Vũ Trụ hình học vĩ mô Ơclit không còn sự chi phối của mối tương
phản ảo - thực tuyệt đối nữa. Lúc này Vũ Trụ hình học đó chỉ gồm là miền thực của
Không Gian, hơn nữa là khắp nơi đều có cùng một tầng nấc qui mô (không có mối
quan hệ tương phản Đại -Tiểu tuyệt đối) và được cho là tương hợp với những biểu
hiện của Không Gian mà con người chiêm nghiệm trong hiện thực khách quan của mình.
Vì không thấy được sự “cấm kỵ tuyệt đối” của Tạo Hóa nên người ta đã đi đến
quan niệm rằng có thể cho khoảng cách trong Vũ Trụ hình học Ơclít (vĩ mô tuyến
tính và thuần nhất) ngắn đến vô cùng nhưng không thể bằng 0 được (hiểu là Hư Vô)
nếu còn muốn khoảng cách đó tồn tại, và do đó, cũng có thể cho khoảng cách dài đến
vô tận nhưng không thể bằng được (theo chúng ta, cũng
là Hư Vô!)
Năm quan niệm nêu
trên có “hay ho” không? Chúng ta không trả lời được. Tuy nhiên có lẽ cũng không
đến nỗi “dở òm”. Chúng ta nghĩ vậy rồi “lảng” sang chuyện khác.
Như đã biết, một
trong những biểu hiện kỳ thú nhất của sự tương phản nghịch đảo qua đường tròn là
mối quan hệ giữa thẳng và tròn của hai miền ngoài và trong. Chúng ta cho rằng đây
cũng là một biểu lộ phi thường nữa của mối tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt
đối của Không Gian Thực Tại. Nếu miền trong đường tròn tâm O được “thấy” là miền
thực (Vũ Trụ Thực) thì phải coi mọi dây cung trong đó (kể cả đường kính) là đường
thẳng (vì hai đầu mút của chúng coi như ở hai đầu vô tận). Ảnh ảo của tất cả các
đường thẳng của miền trong, chiếu theo phương vuông góc với bản thân chúng sẽ
xuất hiện ở miền ngoài (lúc này đóng vai trò là Vũ Trụ ảo) theo cách dựng hình
của phép nghịch đảo qua đường tròn, sẽ là những đường tròn đi qua tâm O (tâm O
lúc này được coi là hạt KG của Vũ Trụ ảo và do hiện tượng chồng chập Không Gian
mà phải tưởng tượng rằng cùng lúc này, nội tại của điểm O mới là Vũ Trụ thực).
Ngược lại, nếu miền ngoài được thấy là Vũ Trụ thực (do đó miền trong là Vũ Trụ ảo)
thì tất cả các đường thẳng không cắt (có thể tiếp xúc tại một điểm) đường tròn
tâm O (do đó mà trường hợp xuyên tâm O cũng bị loại trừ) đều có ảnh ảo chiếu
theo phương vuông góc với chúng, ở trong miền trong và cũng đi qua tâm O. Chúng
ta minh họa hai trường hợp đó theo thứ tự ở hai hình 7/a và 7/b.
Hình
7: Mối quan hệ thẳng – tròn trong tương phản ảo - thực
Trên hình 7/a có
thể thấy ảnh ảo của dây cung SP (đường thẳng thực) chính là đường tròn qua O, có
tâm O’. Dây cung càng dài (càng gần tâm O) thì ảnh ảo của nó có đường kính càng
lớn. Biết rằng dây cung có độ dài lớn nhất của đường tròn tâm O chính là đường
kính AB của nó. Vậy ảnh của AB có đường kính là bao nhiêu? CÓ thể suy ra được, ảnh
ảo của đường thẳng thực AB là đường tròn có đường kính bằng bán kính của Vũ Trụ
ảo (lúc này là miền ngoài). Nếu chiếu AB theo phương vuông góc với bản thân nó
nhưng hướng xuống phía dưới của hình 7/a, sẽ xuất hiện một ảnh ảo y hệt như thế
nữa. Chúng ta có thể gọi hai ảnh đó là đối xứng nhau qua tâm O, hay là tương phản
âm – dương của nhau. Vì AB đang đóng vai trò là đường kính của Vũ
Trụ thực nên nó bằng DV.
Chúng ta đã biết,
chu vi của một đường tròn thì bằng đường kính của nó nhân với số Pi (ở đây, chúng
ta chọn ). Nhưng đó là đối với đường tròn thực. Còn đối với đường
tròn ảo được hình thành trong mối tương phản ảo - thực tuyệt đối thì có thể tính
như vậy được không? Vì chưa thể biết được sự thể sẽ như thế nào nên chính ta chọn
một số hh nào đó tạm gọi là “số điều chỉnh từ ảo sang thực”. Khi AB
là thực thì ảnh của nó là đường tròn ảo đường kính là một nửa đường kính Dh
của hạt KG. Giả sử rằng chu vi đường tròn ảnh của AB trong miền ảo cũng được tính
như đối với đường tròn thực thì có thể viết:
Vì , nên lại cũng viết
được:
Độ dài chu vi ấy,
khi chuyển qua Vũ Trụ thực, sẽ phải là:
(Do hiện tượng
chồng chập Không Gian mà chúng ta chỉ chiêm nghiệm được DV là đường
kính của Vũ Trụ hiện thực, chứ thực ra đường kính toàn phần của Vũ Trụ Thực Tại
phải được coi là )
Vì ở góc độ khác
mà chúng ta đã khảo sát, đồng thời cũng có:
DV=D*.10k
Cho nên phải thêm
tích số hh vào vế phải của biểu diễn toán học ở bên trên để đảm bảo
cân bằng: Rốt cuộc, viết đúng phải là:
Có thể phát biểu:
trong Không Gian Thực Tại, đường kính toàn phần của một đường tròn có chu vi là 2D, hay có thể viết:
Phát biểu đó kể
ra rằng chẳng có gì gọi là cao siêu và biểu diễn toán học đó có vẻ quá tầm thường!
Có thể là như thế. Mặc lòng, chúng ta vẫn nâng niu chúng, coi số h như là một hạt
ngọc quí báu mà phải trải qua một quá trình hoang tưởng cực kỳ dài lâu và gian
khổ mới có được. Trong vật lý học, có một hằng số mà nếu không có nó thì cũng
không có lý thuyết cơ học lượng tử, một lý thuyết đã giải quyết được một cách vô
cùng xuất sắc nhưng vấn đề nảy sinh trong quá trình nghiên cứu hiện thực khách
quan ở tầng nấc qui mô nguyên tử và hạ nguyên tử (hay vẫn thường gọi nôm na là
thế giới vi mô). Đó chính là hằng số Planck. Một cách hoàn toàn linh cảm, chúng
ta cho rằng số hh đang dùng ở đây có thể có mối quan hệ khăng khít
(tương tự như số và số ) với hằng số ấy. Hằng số Planck thực ra là một số gần đúng, được
xác định bằng thực nghiệm (nghĩa là đã chịu sự “lũng đoạn” của chủ thể quan sát…
máy đo). Số trị của nó trong giáo trình vật lý hiện nay được lấy là 6,6256 (chúng
ta tạm loại bỏ tích số chỉ độ nhỏ kèm theo nó đi). Nếu lấy số đó nhân với số
0,96 của chúng ta, sẽ được:
Mặt khác, nếu dùng
số Pi vô tỷ, cũng có:
Trong lịch sử toán
học có câu chuyện “Cây kim của Buffon”. Vào năm 1777 mọt nhà toán học Pháp tên
là Georges Louis Leclerc (thường gọi là Bá tước Buffon, 1707-1788) đã đưa ra bài
toán: có một tờ giấy kẻ những vạch thẳng song song và cách đều nhau được đặt trên
một mặt phẳng (xem hình 8), thảy nhiều lần một cây kim có chiều dài bằng hai lần
khoảng cách giữa hai vạch song song liên tiếp lên tờ giấy đó, hỏi rằng xác suất để
cây kim nằm ở vị trí cắc cách hạch đó là bao nhiêu? Chính Buffon cũng là người
giải quyết bài toán. Kết quả thật ngạc nhiên, đúng bằng . Nếu chúng ta thay bằng thì kết quả là 0,64.
Hình
8: Cây kim Buffon
Với việc xác định
được số hh, chúng ta coi như đã khảo sát xong hoang cảnh ở hình 7/a
và chuyển sang tiếp tục khảo sát hoangc ảnh ở hình 7/b.
Hình 7/b mô tả
trường hợp miền ngoài đường tròn tâm O là Vũ Trụ thực, miền trong là Vũ Trụ ảo.
Ảnh ảo của một đường thẳng không cắt đường tròn O ở miền thực, chiếu theo phương
vuông góc với bản thân nó, là đường tròn trong miền ảo, đi qua tâm O. Chẳng hạn
có đường thằng t ở miền thực thì phép nghịch đảo, và có thể thấy ảnh ảo của nó
là đường tròn tâm e, điểm P’ là ảnh của điểm P trên đường thẳng t. Dễ dàng cảm quan được, đường thẳng ở miền
thực, càng cách xa đường tròn tâm O thì ảnh ảo của nó chiếu theo phương vuông góc
vơi bán thân nó, trong miền ảo, càng nhỏ dần và khi đường thẳng đó có khoảng cách
đến đường tròn tâm O là xa vô tận thì ảnh ảo của nó trong tương phản ảo - thực
nghịch đảo tuyệt đối phải trùng với một “quãng” nào đó trên “đường chu vi” của điểm
O. Vậy quãng đó được nhìn nhận như thế nào? Kinh nghiệm từ trực giác dễ đưa chúng
ta đến quan niệm rằng nếu có thể di dời đường thẳng t theo hướng vuông góc với
bản thân nó ra xa vô tận thì để bảo toàn tính thẳng (tuyến tính) của nó, nó phải
bị thu ngắn dần lại và cuối cùng sẽ thành điểm vô tận trên rìa Vũ Trụ thực. Tuy
nhiên theo ý chúng ta thì đó là một quan niệm sai lầm. Thứ nhất, cần thấy rằng điểm
O được coi là hạt KG trung tâm của Vũ Trụ ảo và khi biến thực thì nó chính là đường
tròn tâm O, nghĩa là đường chu vi của nó cũng có dạng là đường tròn lý tưởng.
Thứ hai, qua cách dựng ảnh ảo của đường thẳng t cũng thấy khi t tịnh tiến ra vô
tận thì độ dài chu vi ảnh ảo của nó càng ngắn “dần” và như vậy, tuân theo mối
quan hệ tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối, bản thân đường thẳng t phải
dài dần thêm ra. Thứ ba, nếu cho trước bất cứ điểm nào trên đường thẳng t đều có
thể xác định trực tiếp và dứt khoát được điểm ảo tương phản đối ứng với nó trên
ảnh ảo của đường thẳng t, trừ hai điểm vô tận (đầu mút) của đường thẳng đó. Rõ
ràng là không có cách nào xác định chắc chắn được hai điểm ở trên rìa Vũ Trụ thực
của đường thẳng t mà chỉ có thể qua suy diễn mà cho rằng ảnh ảo của chúng là trùng
với điểm O. Suy diễn như vậy có hợp lý không? Hợp lý mà cũng không! Ở góc độ
coi ba điểm ấy là điểm hình học thuần túy thì chúng trùng nhau. Nhưng ở góc độ
coi hai điểm vô tận của đường thẳng là có tính hình học thuần túy, còn điểm O được
nhìn nhận là có nội tại thì nó phải tương tự như đường tròn tâm O, do đó ảnh ảo
của hai điểm vô tận kia phải là hai điểm phân biệt trên đường tròn chu vi của điểm
O. Không thể khác được, hai điểm ảo đó chính là hai đầu mút của đường kính điểm
O, vì nếu xê dịch chúng dù chỉ là “một chút xíu” thì hai điểm thực tạo nên chúng
hoặc phải nằm ngoài đường thẳng t, hoặc trở thành hai điểm thông thường, hoàn toàn
được xác định của đường thẳng t. Như vậy, khi đường thẳng t ở vị trí như trên hình
7/b thể hiện thì phải quan niệm rằng ảnh ảo của nó vừa là đường tròn tâm e vừa
không phải là đường tròn đó, hay có thể nói đường đó có tính ỡm ờ nước đôi để
cho tư duy muốn nhìn nhận thế nào cũng được, tùy thích. Khi cho t tịnh tiến ra
vô tận thì vi “lý do tế nhị”, chỉ có những điểm thông thường của đường thẳng t
(mà đại biểu của chúng trên hình 7/b là điểm P) là phải di dời theo hướng kính
của đường tròn tâm O ra xa vô tận để “sẵn sàng” trở thành điểm vô tận, còn hai điểm
đầu mút của đường thẳng t, do “đã ở” vô tận rồi và ảnh ảo của chúng cho thấy
ngay từ đầu chúng là hai “gã quân tử” đích thực, đóng vai “cột trụ kiên cường”
tỏ rõ sự “bất khuất lòng gang dạ sắt” bằng cách “một tấc không đi, một ly không
dời” trong suốt quá trình di dời của đường thẳng t (chứ thực ra chẳng có “tịnh
tiến” gì ở đây cả). Nghĩa là bất cứ lúc nào, dù chưa di dời hay đã di dời, thì
khoảng cách hai đầu mút của đường thẳng t luôn bằng độ dài của đường kính DV
của Vũ Trụ thực.
Cuối cùng, sau
những lời ngụy biện vớ va vớ vẩn nhưng cũng quá ư thấu tình đạt lý ở trên, chúng
ta chỉ còn nước phải đi đến những kết luận sau:
1.- Đường thẳng t trong “thực tế” là đường cong
t’ mà khoảng cách hai đầu mút của nó đúng bằng DV.
2.- Đường t (bây giờ dại gì mà nói thêm từ “thẳng”
nữa!) càng ở xa đường tròn O càng phải dài ra và cong thêm (một cách phù hợp với
độ giãn nở Không Gian của Vũ Trụ thực), sao cho khi đạt đến vô tận, nó phải trùng
với nửa đường chu vi của Vũ Trụ thực.
3.- Trong Vũ Trụ hình học vĩ mô Ơclít có sự “hiện
diện” của mối tương phản ảo - thực tuyệt đối, qua một điểm bất kỳ cho trước chỉ
có thể vẽ được duy nhất một đường thẳng tuyệt đối và đó cũng chính là đường kính
thực của Vũ Trụ.
4.- Trong Vũ Trụ ấy, mọi đường thẳng thực đều phải
“cắt nhau” tại trung tâm Vũ Trụ thực. Do đó mà cũng không xảy ra hiện tượng hai
hay nhiều đường thẳng thực song song với nhau. Nếu có hai đường cách đều nhau
“mọi lúc, mọi nơi”, nghĩa là qua một điểm bất kỳ của một trong hai đường ấy nếu
có thể vẽ một đường thẳng vuông góc với một đường thì nó, cũng vuông góc với đường
kia và khoảng cách (theo đường thẳng vuông góc ấy) là không đổi ở “mọi lúc, mọi
nơi” thì hai đường ấy gọi là song song với nhau, và chúng chỉ có thể là hai đường
tròn đồng tâm và tâm ấy cũng chính là tâm của Vũ Trụ.
5.- Vì các hạt KG trong Vũ Trụ thực đều có vai trò
bình đẳng nhau cho nên bất cứ hạt KG nào cũng đều “có quyền tự cho mình” là
Trung tâm Vũ Trụ thực và là mốc của mối tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối
của Không Gian. Như vậy, phải quan niệm rằng trong Vũ Trụ hình học vĩ mô, khi mối
tương phản ảo - thực không được thể hiện (tất cả các điểm đều không có nội
dung), thì Vũ Trụ hình học đó được thấy là thuần túy, có cùng một tầng nấc qui
mô vĩ mô ở “mọi lúc mọi nơi” (tất cả những biểu hiện tương phản như xa - gần,
to - nhỏ, tròn - thẳng… đều chỉ mang tính tương đối), và được gọi là Vũ Trụ hình
học vĩ mô Ơclít thuần túy. Mọi diễn biến trong Vũ Trụ hình học này đều tuân
theo lý thuyết của Ơclít như chúng ta đã thấy.
Vì, bốn kết luận
đầu có thể tạo nên sự “căm hờn ghét bỏ”, gây “thảm họa” cho chúng ta, cho nên
chúng ta phải thêm kết luận thứ năm để tạo không khí “hòa cả làng”!
Khi di dời đường
t đến vô cùng gần thì nó sẽ tiếp xúc với đường tròn tâm O tại một điểm nào đó. Đó
là trường hợp đường thẳng t1 và điểm T1 (hay đường thẳng
t2 và điểm T2) trên hình 7/b. Đường thẳng t1
(hay t2) chính là đường kính của Vũ Trụ thực, bởi vì trong một hoang
cảnh khác, có thể thấy chúng là biên của một “trục” thẳng đi qua đường tròn tâm
O, nhận hình tròn tâm O làm tiết diện của nó và lúc này cả hình tròn O đóng vai
trò biểu diễn là tâm điểm của Vũ Trụ thực. Nghĩa là độ dài của trục thẳng ấy bằng DV.
Dễ dàng xác định
được ảnh ảo của đường thẳng t1 (hay t2) khi chiếu theo phương
vuông góc với nó, là đường tròn tâm O’1 (hay O’2). Còn ảnh
ảo của điểm T1 (hay T2) là trùng với nó. Có thể nói,
trong mối tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối, điểm T1 (hay T2)
thuộc miền thực mà cũng thuộc miền ảo, đồng thời thuộc hai miền ấy và cũng không
đồng thời thuộc hai miền ấy.
Nếu gọi đường kính
của đường tròn tâm O’1 là dh thì trong Vũ Trụ ảo,
chu vi của nó là:
Vi phép nghịch đảo
qua đường tròn cho thấy:
2.dh=Dh
cho nên:
Hoàn toàn tương
tự như trường hợp ở hình 6/a, khi chuyển chu vi ấy sang độ dài thực, sẽ có:
Trước đây, chúng
ta đã đưa ra khái niệm “đường giả tròn” và bây giờ, khẳng định rằng DTP - độ dài toàn phần của
đường kính Vũ Trụ Thực Tại khách quan, cũng chính bằng đường kính (vừa thực vừa
ảo) của “đường giả tròn” ấy.
Vì DTP cũng có tổng độ dài của
hai đường thẳng t1 và t2, nên chúng ta có thể tưởng tượng
rằng, có một hạt sáng được truyền từ vô tận theo đường thẳng t1 đến điểm
T1 rồi từ đó lại tiếp tục theo đường t1 đến vô cực. Khi đến
vô tận, hạt sáng đó phản xạ trở lại, truyền theo đường thẳng t2, đến
điểm T2, tiếp tục truyền theo t2 đến vô tận, để rồi cũng
phản xạ truyền trở lại theo đường t1 đến T1. Quá trình đó
có thể là bất tận. Có thể thấy ảnh ảo một “vòng” hành trình (không lặp lại) của
hạt sáng là từ điểm O đi theo mũi tên “hết” đường tròn tâm O’1 rồi
theo chiều mũi tên đi “hết” đường tròn tâm O’2 để trở về O.
Tưởng tượng ra như
thế để thấy rằng các bậc hiền triết tiền bối Phương Đông, đến với hình tượng
“Thái cực” không phải hoàn toàn là chủ quan, vô tình. Và dù rằng hạn chế thời đại
đã không cho họ có khả năng chiêm nghiệm xa hơn nữa, thì như vậy cũng thật tài
tình!
Có thể nói những
biểu tượng Thái cực mà người xưa khắc họa nên, đã lột tả được cái thần của sự tương
phản ảo - thực tuyệt đối đồng thời cũng thống nhất tuyệt đối của Vũ Trụ Thực Tại
khách quan. Chúng ta minh họa lại Thái Cực ở hình 9/a để chiêm nghiệm thêm đôi điều
nữa.
Hình
9: Ý niệm về đường kính cong và sự phân tầng qui mô của Vũ Trụ.
Khi coi hình tròn
Thái Cực là hạt KG thì dứt khoát nội tại của nó (đối với chúng ta) phải là miền
Vũ Trụ ảo. Nếu có thể nhìn thấy từ Vũ Trụ thực thì đường ảo SP chính là đường kính
của Thái Cực (đường thẳng có độ dài cực đại của nội tại Thái Cực) và đồng thời
là khoảng cách thực có độ dài cực tiểu của Vũ Trụ thực. Phải cho rằng cùng lúc đó
cũng có thể thấy được trong nội tại Thái Cực, có một đường chữ S (hay sin tính)
SOP. Vì chúng ta đã khẳng định rằng đường tròn Thái Cực (khi nó đóng vai trò là
hạt KG) là có độ cong cực đại tuyệt đối trong Vũ Trụ thực, cho nên sự xuất hiện
của đường chữ S đó (có độ cong còn nhỏ hơn nữa) trong nội tại Thái Cực là một kỳ
dị. Để tránh đi sự kỳ dị đó, phải đi đến quan niệm rằng, khi còn vẽ được, hay nói
đúng hơn là khi còn có thể xuất hiện thực sự đường chữ S đó thì nội tại Thái Cực
vẫn còn là miền thực của Vũ Trụ thực và Thái Cực chỉ là giả Thái Cực, tương tự
như đường tròn tâm O thường được nói đến, chỉ là đại diễn của hạt KG đích thực
(lúc này phải coi điểm O mới là Thái Cực hay điểm KG đích thực), hoặc Thái Cực
phải được coi là Vũ Trụ thực và bên ngoài nó mới là miền ảo - nội tại của hạt
KG.
Khi Thái Cực đóng
vai trò biểu diễn một Vũ Trụ thực thì có thể trực quan được trên hình 9/a: độ dài
của đường chữ S bằng đúng một nửa chu vi của Vũ Trụ thực. Nếu gọi độ dài ấy là DCT thì:
Từ: DTP=2DV
có thể xác định
được tổng độ dài của đường giả tròn:
(Nghĩa là độ dài
đó bằng hai lần chu vi của Vũ Trụ thực, và rõ ràng là nó bằng bốn lần độ dài DCT), hay có thể viết:
Chúng ta gọi đường
chữ S ấy là “đường kính cong chuẩn” của Vũ Trụ thực.
Mối quan hệ toán
học giữa các đường kính ở trên, nếu chỉ nhìn ở góc độ thông thường thì hoàn toàn
tầm thường, mù tịt và câm nín, vì, rõ ràng là chúng được thiết lập nên trên cơ
sở hiểu biết sơ đẳng nhất về hình học. Chắc chắn rằng không một nhà toán học hiện
đại nào bị “rỗi hơi” làm cái công việc ngớ ngẩn là tìm hiểu những thứ hiển nhiên
đến độ không còn có thể hiển nhiên hơn được ấy. Bởi vì họ đâu phải là… những nhà
triết học! Ngược lại, những nhà triết học hiện đại cũng chẳng thèm bận tâm tới
những thứ “vớ vẩn” đã biết từ thời con nít ấy và cũng đã quên từ lâu hoặc thậm
chí chẳng hiểu chúng là cái gì, vì họ đâu có phải là… những nhà toán học. Có lẽ
đối với họ, và đối với cả những bậc thiền ngộ cao siêu, đó chỉ là những cái mũ
phớt cũ mèm, đã quá lỗi thời, không hơn không kém.
Chúng ta quan
niệm khác. Trong khoa học có rất nhiều câu ví von cực hay đã trở nên “thời thượng”
và được nhiều người viện dẫn như: “Cái vô hạn trong lòng bàn tay”, “Vũ trụ
trong vỏ hạt dẻ”, “Chân lý vốn bình dị”… Có lẽ ai cũng thừa nhận sự xác đáng của
những ví von đó nhưng lại hiểu theo nghĩa chúng chỉ là những cách điệu có tính
hàm xúc cao dùng để mô tả khái quát những biểu hiện phổ biến của Tự Nhiên đại loại
như tính thống nhất vật chất của thế giới, những biểu hiện tương tự, hao hao giống
nhau ở những sự vật - hiện tượng hoàn toàn khác nhau về qui mô cũng như nguồn gốc,
nguyên nhân được tạo thành…, và dừng lại ở đó. Trong thực tế, không ít người
thuộc làu làu hàng tá những câu ví von xúc tích đó, và thường đọc chúng một cách
thích thú trong những buổi “trà dư tửu hậu”, nhưng lại hoàn toàn quên chúng khi
suy tư, chiêm nghiệm, tìm hiểu một cách (gọi là) nghiêm túc về Tự Nhiên, để rồi
cho rằng, đối với những biểu hiện lớn lao thì phải có những suy nghĩ phức tạp, đối
với những biểu hiện hiển nhiên, tầm thường thì chỉ cần những suy nghĩ giản đơn,
vô tư, mà không một lần đặt vấn đề: tại sao lại không thể suy nghĩ hồn nhiên, đơn
giản đối với những biểu hiện lớn lao, và không được suy nghĩ phức tạp đối với
những biểu hiện đã là hiển nhiên đến mức tầm thường? Chính chúng ta cũng có lối
suy nghĩ kiểu “khăng khăng” như thế chứ còn nói ai. Rất may, vì quá tò mò muốn
biết Vũ Trụ thực ra là cái gì, trong khi việc tiếp thu để thấy được “rõ ràng và
sáng sủa” những lý thuyết toán – lý siêu phàm đối với chúng ta là hoàn toàn bất
khả, cho nên chúng ta đã thấy được ở những câu ví von trên, ngoài cái hay cái
tuyệt mang tính văn chương ra, còn là những kim chỉ nam thực sự, cùng “khuyên”
chúng ta ở lại với kiến thức sơ đẳng, phổ thông về Tự Nhiên mà loài người đã gặt
hái được từ lâu để may ra còn có thể “đốn ngộ” được Tạo Hóa, Đấng trị vì Vũ Trụ,
cai quản và chăn dắt mọi sự vật - hiện tượng tồn tại ở đó. Đối với những điều đơn
giản mà sự suy nghĩ cũng đơn giản thì coi như đã “biết tỏng” hết rồi, còn gì phải
suy nghĩ nữa, nghĩa là con đường của nhận thức đến đó là kết thúc, hay dẫn đến…
bế tắc và mù tịt. Người lớn, khi xem hình vẽ giống hệt cái mũ phớt của Hoàng Tử
Bé (thực ra là của Êxuypêruy), đã xác định đó rõ ràng là hình cái mũ phớt và hết
chuyện, chẳng còn gì phải bận tâm nữa. Họ đâu có ngờ đã gây ra sự ngỡ ngàng ghê
gớm đối với Hoàng Tử Bé, vì chúng đâu có vẽ cái mũ phớt mà là một con trăn nuốt
con voi trong bụng. Điều đó cũng dễ hiểu thôi: vì người lớn đã từng trải chiêm
nghiệm trực quan trong hiện thực quá lâu rồi cho nên khả năng tưởng tượng của họ
đã thành “chai sạn”, mai một đi và từ đó họ vĩnh viễn không còn thể nào mà hình
dung nổi một con voi to đùng lại nằm gọn được trong bụng một con trăn hơi bị…
nhỏ.
Chính Hoàng Tử
Bé, chứ không ai khác, đã dạy bảo cho chúng ta rằng, phải coi những vấn đề nhỏ
nhoi, đơn giản là lớn lao, phức tạp để suy nghĩ một cách nghiêm túc, tỉ mỉ, kỹ
càng, mà rộng mở đa chiều (nghĩa là phức tạp) đồng thời cũng phải hồn nhiên, khoáng
đạt, và bình dị. Biết trước rằng thực hành lối suy nghĩ kiểu… “lung tung” như
thế trước những vấn đề đã rõ ràng, đơn giản là không phải chuyện dễ nên chàng
ta còn mách nước: với trình độ kiến thức khoa học tự nhiên quá yếu kém thì phải
đề cao sự hoang tưởng, lấy hoang tưởng mãnh liệt làm phương tiện chủ yếu của
suy nghĩ (rất may đây cũng là “thế mạnh vượt trội” của chúng ta!) trên cơ sở kết
hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và ảo tưởng, có như thế thì sự suy nghĩ mới trở
nên phong phú, biết “đậu” chỗ này mà cũng biết “bay” tìm chỗ khác, chỉ như thế
mới có cơ may “đại ngộ” được những điều kỳ diệu trước những biểu hiện giản đơn,
thường tình. Một quang cảnh thiên nhiên kỳ diệu không phải vì bản thân nó kỳ diệu
mà vì được quan sát biết tư duy nhận thức, có tâm hồn hướng thiện, hướng mỹ (mà
suy cho cùng, được chính thiên nhiên “dạy dỗ” trong suốt quá trình sinh nhai vô
vàn hạnh phúc cũng như khổ đau, kéo dài hàng vạn; thậm chí là hàng triệu năm) đánh
giá.
Khi những DV, DTP, DG chỉ là những đường kính
hình học bình thường, thì mối quan hệ toán học giữa chúng cũng chẳng có gì đáng
nói vì được hình học suy ra một cách rất đơn giản và về mặt trực quan hình học
cũng rất hiển nhiên. Thế nhưng khi những đường kính ấy được đặt tên cụ thể như
chúng ta đã đặt, và khi sự “xuất hiện” cũng như mối quan hệ giữa chúng được hình
thành từ quá trình khảo sát, chiêm nghiệm Vũ Trụ trong sự hiển hiện mối tương
phản ảo - thực tuyệt đối của Không Gian, thì đối với riêng chúng ta, đó không còn
là vấn đề bình thường nữa mà mang tính kỳ diệu. Chúng ta suy đoán như thế hay đúng
hơn là linh cảm như thế chứ thực ra chưa biết chắc về điều đó. Không thể “đem
con bỏ chợ” được, chúng ta sẽ cố moi móc vài thông tin, đưa ra cho được vài lý
lẽ “bùi tai” để làm “bằng chứng” cho suy đoán đó, để biện hộ cho linh cảm đó, dù
có thể chỉ là… công cốc. Cũng chẳng lấy gì làm ngại! Thôi, chúng ta “lạnh lùng”
bắt đầu:
1.- Khi cho DCT=1 (và tạm quên 10k đi), thì:
Và do đó:
Hãy nhớ lại:
trong câu chuyện về Tỷ lệ vàng (số ), chúng ta có đề xuất lấy là số Tỷ lệ vàng sao và
theo một định lý của Ơle thì:
Sự trùng hợp này
có lạ lùng không?
Còn có thể viết:
2.- Khi cho DV=1, thì:
Vậy cũng có:
Và:
Sự liên quan mật
thiết và “thuần khiết hữu tỷ” giữa mối quan hệ của ba đường kính ấy với mối
quan hệ làm nên Tỷ lệ vàng sao và bản thân số , phải chăng là bình thường, chẳng có gì lạ lùng?
3.- Chúng ta cho rằng sự tương phản nghịch đảo
qua đường tròn giữa hai miền trong và ngoài, dù là một biểu lộ rõ ràng nhất của
mối tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối, có thực trong Không Gian Thực Tại,
thì sự biểu lộ ấy không còn tính trực tiếp nữa vì đã bị chủ thể quan sát và nhận
thức lũng đoạn một cách tất yếu, không thể loại trừ được. Tuy nhiên, từ cái “hiện
thực” đã méo mó và nặng nề siêu hình ấy, nếu “bình tĩnh”, vẫn có thể rút ra được
cái bản chất cốt lõi, cơ bản nhất, đóng vai trò là những nguyên lý, qui luật
chung nhất, có tính bất biến của cái Thực Tại, cái nền tảng làm nên nó. Một
trong những “bộ phận” vĩ đại của mối tương phản ảo - thực tuyệt đối là sự tác động,
chuyển hóa lẫn nhau giữa tính tròn và tính thẳng của Không Gian thực tại, và nó
phần nào cũng được bộc lộ ra trong hiện thực hình học, thông qua mối quan hệ biến
hóa giữa tròn và thẳng trong hiện tượng trái nghịch giữa miền trong và miền ngoài
được phân định qua đường tròn.
Một cách phổ biến
thì như chúng ta đã khảo sát đại khái, đường thẳng ở miền trong đường tròn sẽ có
ảnh là đường tròn ở miền ngoài, đường tròn ở miền trong có ảnh là đường thẳng ở
miền ngoài, và ngược lại. Điều đó dẫn đến lẽ đương nhiên là trong mối tương phản
ảo - thực tuyệt đối, nếu có thể thấy được miền ảo (thực nội tại hạt KG) từ miền
thực (Vũ Trụ) thì sẽ phải thấy được những đường cong (dù là ảnh ảo hay thực thể)
trong đó. Đây không chỉ là sự “xúc phạm ghê gớm” mà còn là mối đe dọa cực kỳ khủng
khiếp đối với sự tồn vong của quan niệm về độ cong không gian của triết học duy
tồn. Chúng ta là những kẻ “nô lệ trung thành” của tư tưởng triết học ấy nên đã
vội vã ra sức ngăn chặn ngay từ đầu với qui ước rằng, từ Vũ Trụ thực, không thể
thấy được “quái tượng” như thế trong nội tại hạt KG, và một khi còn nhìn thấy được
như thế thì đường tròn “chứa nó” chưa phải là chu vi của hạt KG mà may ra chỉ có
thể là đại diện của nó. Những đường tròn to nhỏ khác nhau chỉ có thể được thấy ở
Vũ Trụ thực, chúng ta khẳng định như thế. Khi đường kính cong chuẩn xuất hiện
trong đường tròn tâm O thì lúc đó phải coi rằng điểm O mới là hạt KG và nội tại
đường tròn tâm O (trừ điểm O) vẫn thuộc miền thực. Lúc này, đường tròn tâm O chỉ
có thể đóng được vai trò là đại diện cho cả hai miền ảo - thực tuyệt đối, đứng đó
“run cầm cập”, tùy tình hình đấu đá giữa hai miền đó mà kịp thời “tùy cơ ứng biến”!
4.- Thực ra trong mối quan hệ tương phản ảo - thực
tuyệt đối thì nội tại hạt KG và Vũ Trụ là hai miền ảo - thực của nhau, nghĩa là
miền này có thể là ảo hay thực của miền kia, và ngược lại. Vì giữa hai miền đó
vừa có sự phân biệt tương phản tuyệt đối, vừa là thống nhất không thể phân biệt
được, hay có thể nói chúng bình đẳng với nhau và như nhau về mọi mặt. Tuy nhiên,
đối với quan sát biết tư duy nhận thức thì miền mà nó tồn tại phải luôn là miền
thực, tức là Vũ Trụ, và về mặt trực quan hình học thì đó luôn phải là miền ngoài
của đường tròn tâm O. Sự “tùy cơ ứng biến của đường tròn tâm O” nhiều khi làm
cho phần trong nó lúc thì “hòa hợp” với miền thực, lúc thì lại “hòa hợp” với miền
ảo, đã dẫn dắt chúng ta đến ý niệm coi nó là “thế giới thứ ba”, hay còn có thể
coi nó là một gã tiểu tư sản có lập trường giai cấp không kiên định, hay cũng có
thể coi đó là một lão nông dân xưa kia, chỉ mong được ăn chắc mặc bền nhưng luôn
bị chao đảo bởi sự lôi kéo, thậm chí là hăm dọa giữa quân “xanh” và quân “đỏ”
(như trường hợp Grigôri trong tuyệt tác “Sông Đông êm đềm” của Sôlôkhốp – nhà văn
kỳ tài của nước Nga Xôviết).
Dù là đã được
“cho phép” thì sự xuất hiện đường kính cong chuẩn trong Vũ Trụ thực cũng vẫn làm
cho chúng ta cảm thấy rất bất an. Đối với đường tròn tâm O hay bất cứ đường tròn
nào khác mà chúng ta có thể dựng (vẽ) được trong hiện thực, chúng ta đều dễ dàng
xác định được dứt khoát cả về hình dạng “thực tế” cũng như độ dài những đường kính
cong chuẩn của chúng một cách tương ứng. Song đối với Vũ Trụ thực (trong Vũ Trụ
hình học vĩ mô là miền ngoài đường kính tâm O), vì liên quan đến vấn đề mù tịt
là sự vô tận nên chúng ta không thể vẽ được đường kính cong chuẩn của nó dù chỉ
một đoạn. Như thế thì cũng chẳng thể vẽ được ảnh ảo của nó thông qua phép tương
phản nghịch đảo. Một đường có thể tưởng tượng về nó rất “rõ ràng và sáng sủa”
nhưng lại không thể vẽ được nó dù là một mảy may, vì thế mà cũng không thể xác định
được ảnh ảo của nó, thì nó có tồn tại thực (dù không hiện hữu!) trong Vũ Trụ thực
không? Hay đó là một sự “khiêu khích trắng trợn” của Tự Nhiên đối với khả năng
hoang tưởng vô tiền khoáng hậu của chúng ta? Không, nói như thế là báng bổ Đấng
Tạo Hóa! Tự Nhiên là vốn dĩ nên Nó hồn nhiên thể hiện, chẳng quan tâm tới ai một
mảy may. Và do đó cũng chẳng cần phải khiêu khích ai, để bị… mất tự nhiên!
Đường kính cong
chuẩn cùng với đường tròn chứa nó là một biểu tượng “tuyệt hảo” về sự uyển chuyển,
hồn nhiên, hài hòa, vừa sống động phân lập, vừa tĩnh tại thống nhất của Vũ trụ
hình học vĩ mô. Thế nhưng với vai trò là đường kính cong chuẩn của Vũ Trụ thực
(dù là mang tính hình học thuần túy chăng nữa) thì cũng chính sự biểu hiện quá ư
trơn tru, “hoàn thiện hoàn mỹ” đó lại tạo ra cảm giác đơn điệu, siêu hình, do đó
mà có vẻ khiên cưỡng, giả tạo. Trước tình hình này, một suy nghĩ hồn nhiên và
khoáng đạt phải đi đến quan điểm trung dung để có cơ may hòa giải xung đột: thừa
nhận cả hai (nghĩa là đồng thời cũng không thừa nhận cả hai!).
5.- Chúng ta thường nói về một Vũ Trụ phân tầng về
qui mô to - nhỏ. Đó là sự thật hay chỉ là suy tưởng triết học? Trong hiện thực
khách quan đời thường, chúng ta không thấy bất cứ một thể hiện nào và vì thế mà
cũng không thể cảm nhận được về tính phân tầng qui mô ấy. Ngay cả trong toán học
thuần túy, dù người ta có nói đến “vĩ mô” hay “vi mô” thì cũng khó lòng hình
dung được một cách rõ ràng và dứt khoát được sự phân tầng về qui mô to - nhỏ của
Vũ Trụ chỉ có vật lý học hiện đại, trong lĩnh vực nghiên cứu tự nhiên theo hướng
vi mô của nó mới đưa ra được những bằng chứng có hiệu lực, gợi ý về tính khách
quan của sự phân tầng qui mô ấy. Cơ học lượng tử chỉ ra rằng trong thế giới vi
mô (tương đối thôi vì “tầm cỡ” vi mô ở đây so với kích thước hạt KG thực ra chẳng
nhằm nhò gì!), vạn vật - hiện tượng của thế giới ấy có nhiều biểu hiện về vận động
và “xử sự” rất khác so với của vạn vật - hiện tượng trong thế giới vĩ mô (cũng
chính là hiện thực khách quan thường thấy của chúng ta).
Thật là dị thường
khi chúng ta đang sống trong một không gian hiện thực đồng nhất và liền lạc thì
đồng thời trùng với không gian ấy, làm nền tảng cho không gian ấy là một không
gian khác, không giống, thậm chí là có nhiều tính chất trái ngược với không
gian hiện thực, và dù “gần gũi” đến như thế thì chúng ta không hề nắm bắt được,
không hề cảm giác được, do vậy mà cũng thực sự quá xa vời. Để lý giải sự dị thường
ấy, phải quan niệm rằng Vũ Trụ Thực Tại vừa phân tầng qui mô vừa không phân tầng
qui mô. Ở góc độ Vũ Trụ là thống nhất thì không có sự phân tầng, ở góc độ Vũ Trụ
thể hiện tính tương phản thì nó có sự phân tầng về qui mô. Xét trong mối quan hệ
giữa tuyệt đối và tương đối thì sự phân tầng về qui mô (hay sự không phân tầng
về qui mô) cũng thể hiện ra dưới hai dạng tuyệt đối và tương đối. Nhờ có sự không
phân tầng tương đối của không gian về qui mô mà chúng ta mới có thể phân biệt được
xa và gần, to và nhỏ, nông và sâu, rộng và hẹp… Nhờ có sự không phân tầng tương
đối của không gian về qui mô mà chúng ta mới cảm nhận được một Không Gian đồng
nhất, liền lạc, trơn tru, “bằng phẳng”, đều đặn… và dù có đưa ra qui ước, đưa
ra mốc so sánh thì nhiều khi cũng khó lòng mà xác định chắc chắn được sự chuyển động
cũng như sự đứng im của vạn vật trong không gian hiện thực.
Chúng ta cho rằng,
tính phân tầng đồng thời không phân tầng qui mô Không Gian Thực Tại một cách
tuyệt đối là có thực, vừa là bộ phận, vừa là kết quả, vừa là một biểu hiện của
nguyên lý nước đôi về mối quan hệ tuyệt đối thống nhất và phân lập của Vũ Trụ
Thực Tại, mà nguyên nhân cuối và duy nhất là nguyên lý Tự Nhiên nhằm đảm bảo
tuyệt đối Tồn Tại. Sự phân tầng đồng thời không phân tầng tuyệt đối về qui mô Không
Gian, dù không bao giờ có thể “hiện nguyên hình” trong không gian hiện thực để
chúng ta có thể trực giác được thì vẫn có thể thông qua những hiện tượng tương đối
có nguồn gốc sâu xa từ nó, hàm ý về nó mà nhận thức được nó. Sự phân tầng đồng
thời không phân tầng tương đối về qui mô không gian trong hiện thực chính là “lời
thầm thì mách bảo” khá tốt về nó.
6.- Thực ra, một cách tự phát (bị buộc phải như
thế mà không biết!) loài người đã đến với quan niệm về một Vũ Trụ phân tầng qui
mô từ rất lâu đời (để có được cách bài trí hình họa trên mặt trống đồng Ngọc Lũ
thời Hùng Vương, người Việt cổ đã phải có ý niệm về một thế giới phân tầng sớm
hơn thời điểm đó rất nhiều). Chắc chắn rằng, những mô hình mang ý nghĩa như là
sự nhận thức khoa học về một Vũ Trụ phân tầng theo qui mô to - nhỏ, đã có từ thời
cổ đại, mà tiêu biểu nhất, nổi tiếng nhất, được coi là thành quả vĩ đại của toàn
bộ công cuộc nghiên cứu thiên văn buổi đầu tiên ở phương Tây, chính là mô hình
hệ thống Vũ Trụ lấy Trái Đất làm trung tâm của Ptôlêmê. Dù sao thì cũng phải đợi
đến khi kính thiên văn ra đời và sau đó là kính hiển vi xuất hiện thì ý thức về
một Vũ Trụ phân tầng qui mô mới có tính khoa học hơn và dần trở nên rõ ràng hơn.
Tuy nhiên, quan niệm về một Vũ Trụ có tính phân tầng qui mô (dù chưa triệt để,
chưa sâu sắc và còn phiến diện) chỉ được khẳng định dứt khoát trong quá trình vật
lý học nỗ lực tìm cách quan sát ngày một sâu vào thế giới vi mô để khám phá nó.
Khi thấy một
quang cảnh trong gương thì người ta nói rằng đó là ảnh (ảo) của một quang cảnh
(thực) hiện lên nhờ phản chiếu gương. Đúng là như vậy! Thế nhưng, nếu cho rằng
hiện thực là tồn tại trên cơ sở tồn tại vật chất và hiện hữu thành thông qua tương
tác vật chất thì quang cảnh trong gương đó cũng có thể được gọi là một hiện thực.
Bởi vì nó cũng có cơ sở từ tồn tại vật chất và cũng hiện hữu thông qua tương tác
vật chất. Dù là thuộc vào quang cảnh ngoài gương (yếu tố tiền nguyên nhân chủ yếu
và có tính quyết định), thì quang cảnh trong gương không phải là hoàn toàn giống
với quang cảnh ngoài gương, mà cũng có những khác biệt, thậm chí là đáng kể, và
gọi là đặc thù. Để “dĩ hòa vi quí”, chúng ta gọi quang cảnh trong gương là hiện
thực ảo.
Tương tự như thế,
bằng cách nào đó, khi chúng ta thấy được một quang cảnh Vũ Trụ ở tầm xa nào đó
thông qua kính thiên văn thì trước mắt chúng ta đó chính là (một phần) hiện thực
(ảo) ở nơi đó. Hiện thực đó chắc chắn không phải là hiện thực mà chúng ta đang
trải nghiệm và quan chiêm thường nhật vì nó ở tận đẩu đâu và nếu không nhờ kính thiên văn thì vĩnh
viễn chúng ta mù tịt về nó. Vậy thì hiện thực "ở đó" có giống với hiện thực “ở đây”
không, hay hỏi chính xác hơn là Không Gian “ở đó” có xử sự như Không Gian “ở đây”
không? Trong nghiên cứu khoa học có một “tập quán tiền định” (vì rất giống bản
năng và không thể loại trừ được) là, khi quan sát thấy một hiện tượng lạ ở đâu đó,
thì ngay lập tức, người ta dùng những trải nghiệm và hiểu biết đã tích lũy được
“ở đây” để giải mã hiện tượng “ở đó”. Nếu quá trình không xảy ra mâu thuẫn nội tại (hoặc không phát hiện
ra bất cứ mâu thuẫn nội tại nào) thì coi như… xong, “ở đây” hay “ở đó” thì cũng
thế. Chỉ khi xuất hiện những yếu tố kỳ dị, phi lý, người ta mới phải vò đầu bứt
tóc xem xét lại vấn đề và sau một khoảng thời gian nào đó, vài ngày hay cũng có
thể là… vài chục thế hệ, người ta mới “à” lên một tiếng: “Thì ra là thế đấy!”.
Và đó cũng chính là lúc ra đời một cách tiếp cận mới, một lý thuyết mới, hơn nữa
nhiều khi là cả một cuộc cách mạng. Trong nghiên cứu vật lý thiên văn có thế không?
Nếu buộc phải trả lời câu hỏi nêu ra ở trên, thì tốt nhất, nên bắt chước triết
học duy tồn, trả lời theo kiểu… ỡm ờ, nước đôi.
Nếu vật lý thiên
văn trình bày ra một hiện thực có phần khác lạ thì vật lý vi mô lại trình bày
ra một hiện thực khác lạ hơn nhiều. Có thể nói vui rằng, ngày nay, loài người đã
có thể quan chiêm được ba hiện thực: hiện thực ở Thiên đường, hiện thực cõi Trần
gian và hiện thực ở chốn Âm ty (đừng hiểu theo nghĩa giáo điều, tín ngưỡng). Có
được ba hiện thực ấy không phải vì Thượng Đế hào phóng gì đối với loài người mà
vì loài người đã phải quần quật nghĩ suy, sáng tạo, vắt óc suốt hàng ngàn hàng
vạn năm.
Không ai có thể
cùng một lúc chiêm ngưỡng ba hiện thực đó mà chỉ có thể lần lượt từng hiện thực
một. Đó là điều lạ thứ nhất và… “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Điều lạ thứ hai
(chưa biết đâu nhé!) là, đối với hiện thực Trần gian, con người không những tha
hồ quan chiêm “toàn cảnh” mà còn tha hồ mà “lặn hụp” trong đó, đối với hiện thực
Thiên đường, có thể dạo chơi chút ít ở phạm vi “gần” nhưng rất nguy hiểm, còn đối
với hiện thực Âm ty thì đừng hòng mà xâm nhập vào lúc còn sống. Điều lạ thứ ba
(cũng chưa biết đâu nhé!) là, muốn thấy được Thiên đường và Âm ty đều phải thông
qua sự hỗ trợ của công cụ, thiết bị. Hai loại công cụ, thiết bị hỗ trợ đó là đưa
quang cảnh ở “tít mù vời vợi” về trong tầm quan sát được của con người (hay có
thể nói là đưa về một tầng nấc qui mô không gian của Trần Gian!). Qua đó mà thấy
một điều lạ thứ tư nữa (rất mới đấy nhé!) là, sự tương đồng giữa vô cùng lớn ở
vô cùng xa và vô cùng nhỏ ở vô cùng gần (ngay sát mũi của hệ quan sát!). Điều lạ
thứ năm (vừa mới vừa cũ, hay thực tại: “Không nói thì không biết, nói thì hóa
ra biết rồi”!) là, hình như thời gian trôi chậm dần theo thứ tự: Cõi Âm ty – Cõi
Trần gian – Cõi Thiên đường và nếu lấy tuổi thọ của ông Bành Tổ bên Tàu làm mốc
so sánh thì có thể viết thế này: Chớp nháy – 500 năm – Vĩnh hằng.
7.- Nói Vũ Trụ vừa phân tầng qui mô vừa không phân
tầng qui mô thì dễ, nhưng trong hiện thực, chúng ta rất khó lòng thấy được (“thấy
ở đây có nghĩa là trực giác của các giác quan chứ không riêng gì mắt) sự thể hiện
đồng thời ấy. Một nhà cao tầng thì rõ ràng là phân tầng chứ không phải không phân
tầng. Một mặt hồ nước phẳng lặng thì rõ ràng là không phân tầng chứ không phải
phân tầng. Điều đó có nghĩa là đối với hai tính cách trái ngược nhau, tính cách
này được khẳng định thì tính cách kia phải bị loại trừ. Khi chúng ta nói phở ngon
hơn cơm thì phở là “ngon hơn” chứ không thể “dở hơn”. Có gã nghe vậy, bĩu môi nói
lại: phở dở hơn cơm. Thật là ngạc nhiên! Nếu gã đó là một người đàn ông Việt Nam khỏe
mạnh thì rất có thể thuộc một trong những dạng sau đây: thích đùa, khiêu khích,
đạo đức giả, bán phở, thích “chả” hơn, vừa mới ăn phở xong. Nói thế thôi chứ mặc
kệ gã (vì “cười người hôm trước, hôm sau người cười”, mà biết đâu chừng một ngày
tối trời nào đó, chúng ta lại thấy như gã: phở dở hơn cơm)! Chúng ta đâu có
quan tâm tới những quan niệm khác nhau về sự ngon - dở giữa phở và cơm. Nếu gã
nói phở dở hơn cơm thì đối với gã (lúc đó thôi!) phở không thể là “ngon hơn” được.
Và đó mới là điều chúng ta quan tâm.
Như vậy, sự đồng
thời thể hiện tính phân tầng và tính không phân tầng theo qui mô của Không Gian
Thực Tại đã làm cho quá trình quan sát của chúng ta trong hiện thực lúc thấy thế
này, lúc lại thấy thế kia, tùy theo góc độ, tùy theo hoàn cảnh và cả tùy theo…
sở thích.
8.- Dù có là Đấng Tạo Hóa toàn năng thì cũng không
thể thấy được rành mạch cảnh tượng phân tầng tuyệt đối về qui mô của Vũ Trụ Thực
tại Khách quan. Bởi vì Đấng tạo Hóa, dù là toàn năng thật đấy, nhưng cũng… thiểu
năng, không thể phân lập dứt khoát được hai tình trạng phân tầng và không phân
tầng đã chồng chập tuyệt đối thành một khối Không Gian “hổ lốn” đến ghê hồn mà
cũng chính là thân xác của Ngài.
Đến Đấng Tạo Hóa
còn không thể thấy được cảnh ngộ ấy thì đối với chúng ta là hoàn toàn vô vọng.
Tuy nhiên, cũng như đối với sự tương phản ảo - thực tuyệt đối, chúng ta có thể
thông qua Vũ Trụ hình học phẳng mà hình dung ra được (một cách siêu hình mà cũng
không kém kỳ ảo) hoang cảnh riêng biệt của sự phân tầng qui mô tuyệt đối và của
sự không phân tầng qui mô tuyệt đối; cũng như sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa
chúng trong Thực Tại Khách Quan (thuộc tầm vĩ mô thôi, nhớ mãi nhé!!!).
Trên mặt phẳng,
chúng ta vẽ một đường tròn tâm O, và gọi đó là miền Vũ Trụ thực trong mối tương
phản ảo - thực tuyệt đối của Không Gian Thực Tại. Điểm O được coi là hạt KG
trung tâm. Khi hạt KG trung tâm không có nội dung (bất định) thì vì miền ngoài đường
tròn O cũng chính là điểm O nên cũng không có nội dung (bất định). Miền Vũ Trụ
thực lúc này coi như không xác định được trong – ngoài (hay không có trong đồng
thời cũng không có ngoài), cho nên phương chiều trong mối quan hệ to - nhỏ cũng
bất định, và như vậy, nó không thể thể hiện được bất cứ dấu hiệu nào về sự phân
tầng qui mô tuyệt đối, nghĩa là không có phân tầng qui mô tuyệt đối (ngay cả đường
tròn tâm O cũng bị xóa đi!).
Miền thực của Vũ
Trụ đã không thể phân tầng qui mô tuyệt đối thì cũng đồng nghĩa với việc “tử hình”
mối tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối. Đến “nông nỗi” này thì miền thực
chỉ còn là một mặt phẳng mông lung, mù tịt và “câm nín” như tờ. Để tránh đi vào
cái “hoang mạc” đơn điệu đến nản lòng đó, chúng ta vẽ lại đường tròn tâm O, quên
đi miền ngoài nó và nhớ rằng điểm O là hạt KG trung tâm và nó có nội tại đóng
vai trò là đơn vị lực lượng thực nhỏ nhất của miền trong Vũ Trụ thực - đường tròn
tâm O. (Cũng có thể tưởng tượng hình tròn tâm O chỉ mới là một phần của miền thực
và phía ngoài nó vẫn còn thuộc miền thực).
Khi miền Vũ Trụ
thực là một hình tròn có tâm là hạt KG (đơn vị làm nên nó) thì rõ ràng là đã có
sự phân lập cực đại - cực tiểu và phương chiều để thể hiện sự phân tầng về qui
mô đã hiển hiện: theo hướng tính từ tâm O ra là từ tận cùng nhỏ đến tận cùng lớn.
Nếu lấy O làm tâm, vẽ thêm một đường tròn nữa ở phía trong đường tròn tâm O ban
đầu, coi như chúng ta đã phân định Vũ Trụ thực thành hai tầng nấc có qui mô khác
nhau: tầng thứ nhất (có qui mô nhỏ hơn) là hình tròn tâm O nhỏ, tầng thứ hai (có
qui mô lớn hơn) là tầng có hình vành tròn tạo bởi đường tròn nhỏ và đường tròn
lớn (xem hình 9/b).
9.- Một câu hỏi đặt ra là, vậy thì dựa vào cơ sở
nào để đánh giá qui mô lớn, nhỏ của tầng nấc nào đó trong Vũ Trụ thực? Có thể dựa
vào diện tích hay thể tích của nó được không? Rõ ràng là không được rồi, vì với
việc vẽ đường tròn trong một cách tùy tiện, chắc gì như mình họa trên hình 9/b,
diện tích hay thể tích của miền vành tròn lớn hơn của hình tròn trong? Bằng trực
quan, dễ nhận thấy một biểu hiện có tính tuyệt đối là đường tròn (hay mặt cầu)
càng lớn thì càng phải ở xa tâm O, nghĩa là càng gần “biên” của Vũ Trụ thực. Vậy
có thể dựa trên cơ sở đường kính trung bình của vành tròn để chỉ thị về mức độ
qui mô của nó. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào đường kính đơn thuần sẽ không thấy được
sự chuyển hóa kỳ lạ giữa tính thẳng và tính tròn trong mối tương phản ảo - thực
tuyệt đối cũng như trong sự phân tầng qui mô tuyệt đối của Không Gian. Chúng ta
cho rằng, hay hơn, nên dùng cái gọi là “độ cong tuyệt đối” để “đo” mức độ qui mô
của một tầng nấc Không Gian nào đó.
Chúng ta đã xây
dựng được khái niệm về độ cong tuyệt đối. Độ cong tuyệt đối của một đường tròn
là bằng j (một tuyệt đối
- đường kính hạt KG) chia cho đường kính của nó. Từ khái niệm về độ cong tuyệt đối,
có thể rút ra một số kết luận sau đây:
- Độ cong tuyệt
đối của đường tròn biên của hạt KG là cực tiểu tuyệt đối trong miền Vũ Trụ thực
và bằng 1.
- Độ cong tuyệt
đối của đường tròn biên của miền thực Vũ Trụ là cực tiểu tuyệt đối trong miền Vũ
Trụ thực (khác 0).
- Tầng nấc Không
Gian trong miền Vũ Trụ thực có qui mô càng lớn nếu độ cong tuyệt đối (trung bình)
của nó càng lớn, và ngược lại.
- Độ cong tuyệt
đối của mọi tầng nấc qui mô Không Gian không thể vượt quá hai cực trị độ cong
tuyệt đối.
- Trong mối tương
phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối, giả sử có thể cho một độ cong tuyệt đối nào
đó đạt được đến cực trị tuyệt đối của độ cong, thì khi đạt đến cực đại tuyệt đối,
nó phải lập tức “biến tướng” thành độ cong cực tiểu tuyệt đối và ngược lại, khi
đạt đến cực tiểu tuyệt đối, nó phải lập tức “biến tướng” thành độ cong cực đại
tuyệt đối. Điều đó cho thấy miền thực của Vũ Trụ là miền có tính cong, “đường
thẳng” (nhất) trong đó là đường tròn có độ cong cực tiểu tuyệt đối, và miền ảo
của Vũ Trụ là miền có tính thẳng, đường thẳng tuyệt đối trong miền đó có độ
cong tuyệt đối (được cho) là bằng O, còn “đường cong” nhất trong miền ảo có độ
cong tuyệt đối bằng với độ cong tuyệt đối của đường tròn chu vi hạt KG – lúc này
biểu hiện ra là độ cong cực đại tuyệt đối của miền đó.
10.- Vậy thì cụ thể, giá trị độ cong tuyệt đối của
một dải tầng nấc qui mô Không Gian nào đó trong miền thực của Vũ Trụ (giả sử là
vành tròn trên hình 8/b), được xác định như thế nào?
Trên hình 9/b,
vành tròn được xác định bởi biên ngoài là đường tròn tâm O có đường kính SP và
biên trong là đường tròn tâm O có đường kính S’P’. Để xác định mức độ qui mô Không
Gian của vành tròn, chúng ta phải tìm cách xác định giá trị độ cong tuyệt đối,
trung bình của nó. Muốn thế, trước tiên là phải xác định đường kính trung bình
của vành tròn, và nó bằng:
Vậy, độ cong
tuyệt đối trung bình của vành tròn đó, là:
Đó chính là độ
cong tuyệt đối của hai nửa đường tròn có đường kính SP’=S’P, được mô tả trên hình
9/b. Có thể thấy hai nửa đường tròn ấy chia vành tròn thành hai phần đối xứng hoàn
hảo qua tâm O. Nếu cho rằng hai phần ấy là tương phản âm – dương của nhau mà
hai nửa đường tròn còn đóng vai trò biểu diễn sự chuyển hóa hài hòa, uyển chuyển
giữa chúng!), thì chúng ta có thể tô màu để phân biệt và điều thú vị sẽ hiện
ra: đó chính là biểu tượng Thái Cực do Lai Trí Đức đề xướng… từ rất lâu rồi!
11.- Cũng trên hình 9/b, hãy “vận nội công” mà tưởng
tượng cho được rằng đường tròn tâm O có đường kính SP là “bên ngoài” của miền Vũ
Trụ thực và đường tròn tâm O đường kính S’P’ là biên của hạt KG trung tâm (biên
của miền Vũ Trụ ảo và cũng đồng thời là “biên trong” của miền Vũ Trụ thực), thì
lúc đó, độ cong tuyệt đối trung bình biểu diễn qui mô của miền thực chính là độ
cong tuyệt đối của nửa đường tròn có đường kính SP’ (và S’P). Ở góc độ này, miền
Vũ Trụ thực chỉ có duy nhất một tầng qui mô, hay không có hiện tượng phân tầng
qui mô.
Cũng lúc đó, ảnh
của hai nửa đường tròn nói trên “hiện lên” như thế nào trong miền ảo? Không cần
biết chính xác, nhưng theo phép nghịch đảo qua đường tròn thì chắc chắn đó là
hai đường cong và rõ ràng độ cong của chúng phải lớn hơn độ cong của đường tròn
biên của hạt KG (lớn hơn 1).
Theo quan niệm
của chúng ta về độ cong tuyệt đối thì điều đó tuyệt đối không được xảy ra, nghĩa
là ảnh ảo của hai nửa đường tròn thực không được phép “hiện lên” trong nội tại
hạt KG như là những đường cong có độ cong tuyệt đối nhỏ hơn 1 (hoặc là như những
đường có độ cong bằng 0 - tạm gọi là những đường thẳng thuần túy hình học).
Tuy nhiên,
trong mối tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối thì lại bắt buộc ảnh của
hai nửa đường tròn phải hiện lên trong miền ảo - nội tại hạt KG. Vậy thì ảnh đó
có dạng như thế nào? Xin mạn phép đố Tạo Hóa đấy!
11.- Ở góc độ miền Vũ Trụ thực không thể hiện sự
phân tầng qui mô thì Thái Cực 9/a và Thái Cực 9/b đều có thể được chọn làm biểu
tượng cho nó, vì chúng hoàn toàn tương đương nhau và chỉ là hai cách nhìn khác
nhau về cùng một đối tượng. Nghĩa là khi hạt KG trung tâm là đường tròn có đường
kính S’P’ thì Vũ Trụ thực được thấy như Thái Cực 9/b và khi hạt KG Trung tâm là
điểm O (nội tại của nó không trình hiện) thì Vũ Trụ thực được thấy như Thái Cực
9/a. Thêm nữa, khi hạt KG “thu về” một điểm thì tất cả các điểm của nó phải chồng
chập nhau tại điểm O, do đó, hai nước đường tròn biểu diễn độ cong tuyệt đối
trung bình của miền thực ở hình 9/b sẽ chuyển hóa thành đường chữ S trên hình
9/a. Vậy có thể nói, đường kính cong chuẩn của Vũ Trụ là đường biểu diễn độ
cong tuyệt đối của miền thực được thấy ở tầm vĩ mô (nội tại hạt KG không thể hiện
hoặc có thể được “bỏ qua”) của nó.
Trong Vũ Trụ thực,
khi hạt KG trung tâm qui về một điểm (điểm O) thì không phải vì thế mà nó Hư Vô
đi, mà chỉ coi như nội tại của nó không thể hiện. Lúc đó, “bề dày” (đường kính)
của nó vẫn là Dh. Và vì đường kính của Vũ Trụ thực là:
Trong tình thế
tương phản nghịch đảo tuyệt đối, chúng ta đã đưa ra:
Trong Vũ Trụ thực,
trị tuyệt đối của đường kính hạt KG đóng vai trò là đơn vị độ dài nhỏ nhất tuyệt
đối cho nên có thể đặt nó bằng j (một tuyệt đối)
và vì trong trường hợp này, chẳng cái gì có thể cạnh tranh vị trí đó của nó được,
nên có thể viết là 1 (số một thông thường).
Khi
thì:
Đến đây, có thể
viết:
Vì 1 so với “muôn
trùng thiên lý” thì “chả là cái gì cả” nên có thể coi là bằng 0, và như thế:
(Ở đây, cần phải
nhấn mạnh: không thể suy diễn rằng “thằng” nông dân khố rách áo ôm, nghèo mạt rệp
là bằng 0 so với “ông” tỷ phú quần là áo lượt, giàu sụ “nứt đố đổ vách”, bởi vì
“thằng” thì cũng “người” giống hệt “ông”, chẳng khác gì, thậm chí nhiều khi xét
về mặt đức độ, “thằng” còn “người” hơn là “ông”).
Có thể kết luận:
độ cong tuyệt đối trung bình của Vũ Trụ thực đúng bằng độ cong tuyệt đối của đường
tròn có đường kính là một nửa đường kính Vũ Trụ được.
12.- Mặt khác, lại phải thấy rằng, vì hạt KG
(trung tâm) của Vũ Trụ thực là một tồn tại thực thuộc về nó và đóng vai trò tầng
nấc có qui mô Không Gian nhỏ nhất tuyệt đối (có độ cong tuye5t đối cực tiểu và
bằng 1) của nó, nên có thể phân ra các tầng qui mô Không Gian khác nhau trong Vũ
Trụ thực (nghĩa là có thể sẽ được vô số những vành tròn bao quanh tâm 0!). Vậy
thì sự phân tầng tuyệt đối của Vũ Trụ thực “diễn ra” như thế nào?
Có thể tưởng tượng
rằng, vì khoảng cách nhỏ nhất tuyệt đối trong Vũ Trụ thực bằng độ dài đường kính
hạt KG (bằng ), cho nên
trong Vũ Trụ thực phân tầng, không thể tồn tại vành tròn có bê tông nhỏ hơn 1
(hiểu là ). Chúng ta
quan niệm rằng, Vũ Trụ thực phân tầng qui mô tuyệt đối là gồm vô van những vành
tròn có bề rộng bằng 1 bao quanh hạt KG trung tâm, “nằm” kế tiếp nhau từ biên hạt
KG đến biên ngoài của Vũ Trụ thực. Vì giá trị độ cong tuyệt đối trung bình của
những vành tròn đó, nếu đem so với nhau, sẽ thấy có tính giảm dần từ trong ra
ngoài theo hướng kính, nên qui mô của những vành tròn đó (đường kính trung bình
của chúng) có tính tăng dần từ “kích cỡ” hạt KG đến “kích cỡ” Vũ Trụ.
Từ lập luận trên,
chúng ta có thể minh họa (một phần) sự phân tầng tuyệt đối về qui mô Không Gian
của miền Vũ Trụ thực ở hình 10.
Trên hình 10,
chúng ta vẽ ba vành tròn tượng trưng cho ba vùng tầng nấc qui mô Không Gian, được
gọi theo thứ tự từ trong ra ngoài là 1, 2, 3. Đường tròn trong cùng là biểu diễn
hạt KG. Biết đường kính hạt KG là Dh, chúng ta có thể tính được độ
cong tuyệt đối trung bình của ba vùng Vũ Trụ thực trong tình trạng phân vùng qui
mô tuyệt đối, đó là:
Hình
10: Sự phân tầng tuyệt đối qui mô Không Gian
Theo đà giảm dần
ấy, có thể thấy vùng tầng nấc qui mô cực đại của Vũ Trụ thực có độ cong tuyệt đối
trung bình cực tiểu, và bằng:
Với là một số tự nhiên chẵn
để là một số tự nhiên lẻ.
13.- Trong sự phân tầng qui mô tuyệt đối của Vũ
Trụ thực, có một hiện tượng kỳ thú. Đó là nếu dựng những nửa đường tròn biểu diễn
hình học về độ cong tuyệt đối trung bình của các vùng tầng nấc qui mô Không
Gian một cách hợp lý (xem hình 10), thì chúng ta sẽ có được một đường xoắn trôn
ốc e biểu diễn sự giảm dần (hay tăng trưởng dần) mang tính cực kỳ đều đặn của độ
cong tuyệt đối (hay của qui mô Không Gian) từ cực đại đến cực tiểu (hay từ cực
tiểu tới cực đại) theo hướng kính từ trung tâm ra ngoài.
Thêm một chút tưởng
tượng, nếu chúng ta cho rằng đường e bắt đầu từ điểm A đi theo đường tròn chu
vi của hạt KG (có nội tại là miền O) trở về A rồi từ đó mới đi đến B, từ đó tiếp
tục và lần lượt đến C, D, E…, thì đường e, bản thân nó lập thành một vành xoắn ốc
có biên là chính nó. Điều lạ của vành xoắn ốc này là bề rộng của nó tại điểm A
là bằng O (thực ra là phải bắt đầu từ ), rồi lớn dần
khi đến điểm B rồi điểm C. Khi đến điểm D thì sự lớn dần ấy dừng lại. Lúc này bề
rộng của vành xoắn trôn ốc bằng 2 lần độ dài đường kính hạt KG. Bắt đầu từ D, bề
rộng vành xoắn trôn ốc là bất biến. Chẳng hạn khi đường xoắn trôn ốc đến E thì
bề rộng vành xoắn trôn ốc ở đó là EB. Dễ thấy:
Có khi nào dùng
hình tượng vành xoắn trôn ốc để giải thích định tính quá trình giãn nở Vũ Trụ
sau cú nổ Big Bang (mà vật lý học hiện nay đã khẳng định) hay không? Giả sử rằng
hạt KG trung tâm chính là điểm kỳ dị mà vật lý học đã hình dung. Khi nó nổ thì
cũng là lúc Vũ Trụ hình thành và giãn nở. Giai đoạn đầu tiên và ngắn ngủi của sự
giãn nở Vũ Trụ có tính bột phát theo hàm mũ nên được các nhà vật lý học gọi là
“Thời kỳ giãn nở lạm phát”. Phải chăng thời kỳ này ứng với giai đoạn tăng dần bề
rộng của vành xoắn trôn ốc? Sau đó, Vũ Trụ tiếp tục giãn nở đến ngày nay và vẫn
đang tiếp diễn một cách có gia tốc đều đặn, là ứng với vành xoắn trôn ốc tiếp tục
rời xa trung tâm (cội nguồn của nó) với bề rộng bất biến (đóng vai trò như gia
tốc tăng dần đều của sự giãn nở Vũ Trụ)?
Đó là những
nghi vấn vô tình bật ra từ sự hoang tưởng bạt mạng chứ không phải do chúng ta cố
ý bày ra để xỏ xiên một ai đó. Nếu ai cho rằng đó là những câu hỏi xách mé, hồ đồ
thì vì bộ não của chúng ta hư hỏng chứ không phải vì chúng ta là những người
thiếu nhân cách. Đúng thật là chúng ta không tin một chút xíu nào vào học thuyết
Big Bang và đang cố gắng tìm cách phản biện nó. Chúng ta hằng tâm niệm rằng cần
phải nâng niu những thành quả của quá khứ vì nhờ kế thừa được tinh hoa của nhân
loại ở quá khứ mà hiện tại mới gặt hái được những tri thức mới. Nhưng đồng thời,
hiện tại cũng phải biết nghi vấn và phản biện lại quá khứ một cách chân thành,
mạnh dạn, cầu tiến, để tương lai có cơ may trở nên sáng sủa, rực rỡ hơn. Đó cũng
chính là con đường phải đi mang tính tất định của tư duy nhận thức hồn nhiên nhưng
cặn kẽ, khiêm cung nhưng khí phách, nhẹ dạ cả tin mà cũng nặng lòng đa nghi.
14.- Trong khi ở miền thực có thể “vẽ” bất cứ đường
tròn nào có độ cong tuyệt đối nằm giữa hai cực trị của độ cong tuyệt đối, và do
đó, nó mới có khả năng thể hiện được sự phân tầng qui mô tuyệt đối về Không
Gian, thì tại miền ảo (tức miền trong và cũng là nội tại hạt KG lại không thể vẽ
được bất cứ đường tròn nào có độ cong tuyệt đối nhỏ hơn độ cong tuyệt đối của đường
tròn biên của hạt KG, vì thế mà không thể dựng được trong đó ảnh ảo của Vũ Trụ
thực có biểu hiện phân tầng qui mô tuyệt đối, nghĩa là không thể phân tầng qui
mô tuyệt đối đối với nội tại hạt KG, hay có thể nói Vũ Trụ ảo là miền Không
Gian không có sự phân tầng qui mô một cách tuyệt đối. Chúng ta cho rằng hiện tượng
này hoàn toàn phù hợp đối với mối tương phản ảo - thực tuyệt đối, và hơn nữa là
hệ quả của mối quan hệ đó. Tuy nhiên, quan niệm như thế sẽ vấp phải một mâu thuẫn
nội tại “ác liệt” là không thể dựng được ảnh ảo của một đường tròn thực nhưng ảnh
đó bắt buộc phải có. Nếu quan niệm của chúng ta là đúng thì chắc là Tạo Hóa đã
có giải đáp ổn thỏa.
15.- Đừng quên rằng sự tương phản ảo - thực tuyệt đối
chỉ thể hiện dưới hình thức nghịch đảo tuyệt đối, mà đồng thời còn thể hiện dưới
hình thức âm – dương tuyệt đối nữa. Tùy góc độ nhìn nhận mà chúng ta có thể thấy
hình thức này hay hình thức kia thể hiện nổi trội hơn, thậm chí là đến mức lấn át.
Cũng có thể hình
dung được, tại một “vị trí” thích hợp nào đó, có thể “quan sát thấy” hoang cảnh:
Vũ Trụ hình học vĩ mô phân cập thành hai miền Không Gian tương phản ảo - thực
tuyệt đối với nhau mà hai hình thức nghịch đảo và âm – dương cùng đồng thời thể
hiện một cách bình đẳng. Lúc này hai miền Vũ Trụ tương phản ảo - thực tuyệt đối
ấy phải được thấy là bằng nhau tuyệt đối về lực lượng Không Gian nhưng có tính
trái chiều tuyệt đối so với nhau, hơn nữa, nếu miền Vũ Trụ này bị phân tầng qui
mô tuyệt đối thì Vũ Trụ kia tuyệt đối không phân tầng qui mô.
16.- Không có Vũ Trụ Thực Tại khách quan thì không
có Vũ Trụ hiện thực, không có Vũ Trụ hiện thực thì không có Vũ Trụ hình học vĩ
mô Ơclít. Nhờ có Vũ Trụ hình học vĩ mô Ơclít và kết hợp với sự hoang tưởng mà
chúng ta thấy được những cảnh tượng bình thường vụt hóa phi thường, làm phát lộ
ra nhiều đặc tính cũng hết sức phi thường, đầy kỳ ảo của Vũ Trụ Thực Tại khách
quan. Dù sao thì những cảnh tượng ấy, khi đóng vai trò biểu diễn Vũ Trụ Thực Tại,
vì thuộc về Vũ Trụ hình học đã lũng đoạn với tính chủ quan, là kết quả có được
từ quá trình “đại phẫu”, “phanh thây”, “chia đàn xẻ nghé” của tư duy sáng tạo
nhằm tạo khả năng cho nhận thức, nên mang tính siêu hình, phiến diện, đồng thời
trở thành những hoang cảnh dị thường khó tin.
Trong Thực Tại
khách quan, những hoang cảnh ấy không thể tồn tại, vì Không Gian có đặc tính phân
định đối lập trong sự thống nhất tuyệt đối, hay có thể nói, Vũ Trụ Thực Tại là
vô vàn trong duy nhất tuyệt đối. Rốt cuộc, phải đi đến nhận thức rằng, Vũ Trụ
Thực Tại khách quan phân tầng qui mô tuyệt đối mà cũng tuyệt đối không phân tầng
qui mo, vừa phân tầng qui mô tuyệt đối vừa tuyệt đối không phân tầng qui mô, và
cũng không phải như thế.
Nhận thức trên
sẽ tất yếu dẫn đến sự khẳng định chung cuộc, có một không hai rằng, Vũ Trụ Thực
Tại khách quan vừa hỗn độn vừa hài hòa đến tận cùng khả năng của nó, đến tột độ
có thể của nó; đó là một Vũ Trụ chồng chập để duy trì “đủ thứ”, để bảo toàn mọi
mặt, mọi đặc tính vốn dĩ của nó, và Vũ Trụ đó luôn luôn, vĩnh viễn phải là như
thế, là vốn dĩ thế chứ không thể khác (bất chấp mọi quan sát và nhận thức lúc này,
lúc nọ hay… bất cứ lúc nào, ở đây, ở kia hay bất cứ nơi nào, bảo rằng nó khác!).
Nếu có thể nói, nguyên lý tối thượng, nguyên lý của mọi nguyên lý, là Tự Nhiên để
Tồn Tại và Tồn Tại phải Tự Nhiên, thì cũng có thể nói “hậu quả” trực tiếp của
nguyên lý ấy là đặc tính Nước Đôi, đặc tính bao hàm nhất, cốt lõi nhất của Vũ
Trụ Thực Tại Khách quan.
Tự Nhiên Tồn Tại
là một hiện thực phi thường, biểu hiện ra thành một Không Gian vô thủy vô chung
mà kiên định như nhất, đồng thời cũng là một Vũ Trụ ỡm ờ vĩ đại.
16.- Có thể mường tượng sự ỡm ờ của Vũ Trụ Thực Tại
đại khái là có biên mà cũng không có biên, có trong mà cũng không có trong, có
ngoài mà cũng không có ngoài, một phía mà cũng vô vàn phía, hữu hạn mà cũng vô
hạn, cực tiểu mà cũng không cực tiểu, cực đại mà cũng không cực đại…
Vì Vũ Trụ Thực
Tại khách quan là chồng chập tương phản của bản thân nó cho nên, nói riêng, hai
mặt phân tầng qui mô tuyệt đối và tuyệt đối không phân tầng qui mô phải thỏa
thuận nhau, dung hòa nhau để “cùng chung sống và an hưởng thái bình” theo cái cách
mà nhiều nhà chính trị thường hô hào các dân tộc trên thế giới: “Hòa nhập nhưng
không hòa tan!”.
Khi hai miền ảo
và thực của Không Gian trong tương phản ảo - thực tuyệt đối chồng chập nhau thì
Vũ Trụ không còn “rõ ràng và sáng sủa” (vì thế hóa ra cũng phi Tự Nhiên) nữa mà
trở thành mịt mùng đầy những biến hóa kỳ ảo khôn lường (vì thế mà cũng Tự Nhiên).
Trong toán – lý
có vô số những biểu diễn ám chỉ đến tính chồng chập của Vũ Trụ Thực Tại khách
quan. Ngay cả đối với những biểu diễn đơn giản nhất, đôi khi cũng thấy được điều
đó. Chẳng hạn, chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao lại có thể viết được:
2+3=5 ?
Tại vì hiển nhiên
là phải thế chứ sao nữa! Chúng ta có thể trả lời như vậy và kể ra thì cũng xác đáng.
Thế nhưng cũng có thể có người chưa thỏa mãn, hỏi tiếp: từ đâu mà có sự “hiển
nhiên” đó? Đây là câu hỏi không dễ trả lời, thậm chí nó có thể khơi mào cho một
cuộc hỏi – đáp vòng vo bất tận. Để loại bỏ khả năng xuất hiện câu hỏi tiếp theo
và tránh đi cuộc “trường chinh” lê thê không có hồi kết (hoặc hồi kết là một cuộc
“tranh hùng” bằng tay chân!), thì chúng ta phải soi gương chàng rể nông dân nọ,
trả lời bằng một câu tuyệt cú mèo: Trời sinh ra thế! Tuy nhiên, một khi không
phải là ai khác mà chính chúng ta đặt ra câu hỏi cắc cớ đó để bắt bản thân mình
phải trả lời thì vì mục đích nhận thức mà chúng ta không thể trả lời cộc lốc
cho xong chuyện như thế được.
Theo chúng ta
quan niệm, biểu diễn được như trên là nhờ có quan sát nhận thức hiện thực kết hợp
với tư duy sáng tạo. Biểu diễn đó hoàn toàn có nguồn gốc từ tự nhiên (bởi vì
ngay cả tư duy sáng tạo cũng có nguồn gốc từ tự nhiên) cho nên nó có tính hiển
nhiên. Thế nhưng nó cũng đồng thời không hiển nhiên vì tự thân nó không thể xuất
hiện trong hiện thực nếu không có tư duy sáng tạo.
Vậy thì sự hiển
nhiên ấy cụ thể là gì? Là thế này: hiện thực khách quan đã phơi bày ra trước mắt
quan sát và tư duy cái đặc tính chồng chập Không Gian của nó: vừa rời rạc vừa
liên tục, vừa phân lập vừa thống nhất, vừa phân tầng qui mô vừa không phân tầng
qui mô. Nếu hiện thực khách quan không có đặc tính ấy thì bản thân nó cũng không
có chứ nói gì đến quan sát nhận thức lẫn tư duy sáng tạo, hoặc giả, dù có hiện
thực và tư duy sáng tạo đi chăng nữa thì tư duy sáng tạo cũng “bó tay chịu chết”,
không thể nào “đưa ra” sự biểu diễn gọi là “hiển nhiên” nói trên được.
Tổng quát hơn,
chúng ta luôn có thể chọn được những số (lượng) tự nhiên a, b, c, d để thỏa mãn:
a+b=c
và a.b=d
Đó là điều hiển
nhiên không thể hiển nhiên hơn được nữa! Hay chúng ta nói: biểu diễn như vậy được
vì Vũ Trụ có tính nước đôi, chồng chập là một hiển nhiên. Nếu giả sử rằng Vũ Trụ
chỉ có tính rời rạc và không phân tầng qui mô thôi thì “hiển nhiên” chỉ có thể
biểu diễn được:
Hai biểu diễn ở
phía trên đã được loài người xây dựng từ rất sớm. Tuy nhiên, kể từ đó, dù rằng
trong đời sống thực tiễn đã xuất hiện khái niệm như “không có gì”, “Không có gì”,
“hết”, thì phải đến cả ngàn năm sau, ký hiệu số “không” (0) mới xuất hiện. Điều
đó cho thấy quan niệm về “tồn tại” dễ hiểu bao nhiêu thì quan niệm về “hư vô”
khó hiểu bấy nhiêu. Đến ngày nay, số 0 coi như chẳng còn gì là bí hiểm nữa, nhưng
thử hỏi, có mấy ai đã hiểu hết được ngọn ngành ý nghĩa lớn lao của nó cũng như
của hai biểu diễn thuộc hàng sơ đẳng đó?
Phải chăng cái bề ngoài “chẳng ra làm sao cả”, “chẳng đáng phải bận tâm” của chúng
lại chính là sự ám chỉ đến cái nguyên nhân tự nhiên sâu xa về sự tồn tại của chúng
và cũng là một đặc tính vĩ đại của Tự Nhiên Tồn Tại, đó là, Không Gian phân định
tương phản đối ứng tuyệt đối trong sự thống nhất (chồng chập) tuyệt đối của Nó.
Như vậy, nếu muốn và một cách hình thức, chúng ta có thể chuyển đổi hai biểu diễn
đó về hai biểu diễn của mối tương phản ảo - thực tuyệt đối.
Từ: a.b=d
Và cho rằng d,d1,d2 là những đường kính lần
lượt của ba đường tròn (đồng tâm), thì chúng ta sẽ trở về với phép nghịch đảo
qua đường tròn đã quen thuộc:
d1.d2=d2
Chúng ta đã
quan niệm biểu diễn trên cũng chính là một thể hiện của sự tương phản ảo - thực
nghịch đảo tuyệt đối của Vũ Trụ Thực Tại khách quan trong Vũ Trụ hình học vĩ mô
Ơclít. Vì thế mà từ:
a.b=d,
Rõ ràng là có
thể viết được:
DV.Dh=D2
Khi d1=DV (đường kính Vũ Trụ thực)
d2=Dh (đường kính hạt KG)
d=D (đường kính Vũ Trụ chồng
chập tượng trưng)
Trong Vũ Trụ Thực
Tại, do có sự chồng chập Không Gian tuyệt đối, nghĩa là phải có:
Cho nên:
nghĩa là không
có hiện tượng tương phản nghịch đảo tuyệt đối (không hiện hữu nhưng tồn tại và
chỉ có thể phát hiện ra bằng suy lý!).
Biểu hiện thứ
hai của tương phản ảo - thực tuyệt đối là sự phân định đối ứng âm – dương tuyệt
đối của nó. Nghĩa là nếu đã có:
DV.Dh=D2
Thì cũng phải có:
Vậy thì từ: a+b=c có thể suy ra được biểu
hiện thứ hai của mối tương phản ảo - thực tuyệt đối được không? Hiển nhiên là được!
16.- Trong quá trình xây dựng khái niệm vế độ cong
tuyệt đối và lấy đó làm cơ sở để xáv nhận mức độ qui mô trong tình thế phân tầng
đại - tiểu tuyệt đối của Vũ Trụ thực, chúng ta đã thiết lập được công thức tính
độ cong tuyệt đối trung bình là:
Trong tình thế
chồng chập Không Gian thì Vũ Trụ thực biến thành Vũ Trụ Thực Tại Khách quan được
thấy ở tầng nấc vi mô nào đấy (Vũ Trụ hiện thực của con người chẳng hạn!). Lúc đó
vì:
cho nên độ cong
tuyệt đối trung bình của Vũ Trụ Thực Tại (ký hiệu là ), phải bằng:
Đây cũng chính
là độ cong cực tiểu tuyệt đối của Vũ Trụ Thực (vì rõ ràng là nó bằng với độ
cong tuyệt đối của đường tròn chu vi Vũ Trụ ấy).
Vì đường kính
cong của Vũ Trụ Thực Tại có độ cong đúng bằng nên trong tình thế phân
định ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối, có thể xác định được ảnh ảo của nó trong
miền ảo (nội tại hạt KG) mà không vấp phải mâu thuẫn nào. Ảnh ảo của đường kính
cong của Vũ Trụ Thực Tại cũng là đường kính cong của nội tại hạt KG (có độ cong
đúng bằng độ cong của đường tròn chu vi hạt KG). Chúng ta mô tả cái hoang cảnh ấy
ở hình 11/a (với đường tròn tâm O đóng vai trò chu vi hạt KG)
Hình
11: Đường kính cong và sự phân tầng qui ô tương đối của Vũ Trụ Thực Tại
Đường lượn trong đường tròn tâm O
chính là ảnh của đường kính cong DTN của miền thực (và cũng chính là
đường kính cong của Vũ Trụ Thực Tại). Hai đường này là đồng dạng nhau.
(còn nữa)
(còn nữa)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét