Thứ Tư, 24 tháng 12, 2014

THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 33/b

                                                     THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (III)
 
                                                                                                 
ĐẠI CHÚNG   
                                                            ----------------------------------------

                                                               PHẦN III

Nguồn cội 

“Đừng chê cõi trần nhơ
  Đừng khen cõi trần đẹp
  Cõi trần là thản nhiên
  Chỉ có đời nhơ, đẹp

                                  Trần Hạnh Thu




CHƯƠNG XI: ANH HÙNG

“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”
Hồ Chí Minh


 (tiếp theo)
Có được bản dự thảo hiệp định, Kítxinggiơ không giấu được vui mừng vì thấy ở bản dự thảo hiệp định một cơ hội để giúp đưa tập đoàn cầm quyền Níchxơn vượt qua cuộc bầu cử sắp tới. Ngay tối hôm 8-10, văn bản dự thảo hiệp định đã có trên bàn làm việc của Níchxơn và ông ta lập tức điện khẩn, chỉ thị cho Kítxinhgiơ tiếp nhận bản dự thảo. Chuyên viên hai phái đoàn nhanh chóng hoàn thành văn bản hiệp định chính thức và cũng đi đến thỏa thuận:
-         Ngày 18-10-1972: Mỹ ngừng ném bom miền Bắc và ngừng thả thủy lôi ở các cảng.
-         Ngày 19-10-1972: Ký tắt Hiệp định tại Hà Nội.
-         Ngày 26-10-1972: Ký chính thức tại Pari.
-         Ngày 27-10-1972: Ngừng bắn trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Vào ngày 11-10-1972, Mỹ đề nghị sửa lại thời gian ký kết: ngày 22-10-1972 ký tắt, ngày 30-12-1972 ký chính thức. Tỏ thiện chí, phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chấp nhận đề nghị đó, dù biết rõ ý thâm độc của Níchxơn và đã chuẩn bị đối phó. Trước đó chính Hồ Chí Minh đã nói đại ý: Mỹ nhất định thua nhưng chỉ chịu thua sau khi đã thua trên bầu trời Hà Nội.
Kitxingiơ điện ngay cho Thiệu (Tổng thống ngụy ở Sài gòn): “Lấn chiếm càng nhiều càng tốt”. Lầu Năm Góc tăng cường trang thiết bị quân sự và vũ khí có giá trị lên đến 2 tỷ đôla cho chính quyền Sài Gòn. Quân đội ngụy lúc này lên đến 1,1 triệu tên (chưa kể 4 triệu bán vũ trang). Lực lượng hải quân và lính thủy đánh bộ tăng 2 lần so với năm 1969, còn không quân của chúng tăng gấp 2,5 lần.
Ngày 18-10, Kitxingiơ bay sang Sài Gòn gặp Thiệu. Không biết cuộc thuyết khách của Kitxingiơ xảy ra như thế nào mà Thiệu chống lại quyết liệt bản Hiệp định và không chịu ký. Sự kiện này kể cũng lạ lùng. Không biết “bố” Níchxơn có dặn ngầm “con” Thiệu không mà Thiệu ương ngạnh đến thế? Không lẽ con rối lại có thể điều khiển được người giật dây? Ấy vậy mà điều đó đã xảy ra: Níchxơn đề nghị hoãn ký kết lại do “khó khăn ở Sài Gòn phức tạp hơn dự kiến” và tráo trở tuyên bố bản dự thảo còn một số điểm “cần tiếp tục giải quyết”. Ngày 24-10, Thiệu công khai chống lại bản dự thảo và hô hào “quét sạch không thương tiếc Cộng sản”.
Sự ỡm ờ, hoãn binh có tính lật lọng hèn mạt đó của Níchxơn đã buộc chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa công bố bản dự thảo Hiệp định vào ngày 26-10-1972, nêu rõ thiện chí của mình và kết tội Mỹ không thiện chí, cố tình phá hoại.
Hai giờ sáng ngày 27-10, tại Phòng tình huống của Nhà Trắng, tướng Hâugơ, trơ lý của Kitxingiơ đã thu được toàn văn bản tuyên bố đó truyền đi qua Đài tiếng nói Việt Nam. Ông này lập tức điện thoại cho Kitxingiơ. Tiếp đó, Níchxơn cũng bị dựng dậy. Giữa đêm khuya, Nhà Trắng chìm trong bầu không khí bồn chồn lo lắng. Rất có thể bản tuyên bố đó sẽ trở thành quả bom nổ hất Níchxơn và bậu sậu văng ra khỏi Nhà Trắng, khi mà chỉ còn 11 ngày nữa là cử tri Mỹ đi bỏ phiếu bầu cử tổng thống. Bởi vì trong chương trình tranh cử của mình, đối thủ của Níchxơn là ông nghị “bồ câu” Mắc Gavơn đã từng tuyên bố: “Nếu tôi trúng cử, việc ưu tiên số một của tôi là rút khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam mà không cần đặt một điều kiện gì kể cả việc đưa tù binh Mỹ về nước.”
Níchxơn cùng bộ tham mưu Nhà Trắng cuống cuồng họp lại, bàn bạc cách đối phó. Cùng ngày hôm ấy, Kitxingiơ đã tổ chức họp báo. Cuộc họp này đã đi vào lịch sử như là một sự bịp bợm, mị dân của chính quyền Níchxơn: Trước đông đảo các nhà báo Mỹ và thế giới, Kitxingiơ với nét mặt “chân thành” đã trịnh trọng tuyên bố: “Hòa bình đã ở trong tầm tay”, và nói thêm: “Chúng tôi tin rằng một bản hiệp định đã ở trong tầm tay”.
Cái thông tin “Hòa bình trong tầm tay” đã nhanh chóng theo làn sóng điện lan tỏa khắp địa cầu.
Sau này, Kitxingiơ đã tự thú trong hồi ký của mình: “Ngày 27-10-1972 là một ngày xúc động với những mưu mô phức tạp”.
Ngày 7-11-1972, Níchxơn trúng cử Tổng thống Mỹ lần thức 2. Khỏi phải nói Thiệu mừng hú đến cỡ nào. Bản thân Níchxơn, khi đã yên vị trên ghế Tổng thống, cảm thấy giấc mộng “vĩ nhân” đang dần biến thành hiện thực, nhất là đã có thừa thời gian giở trò “phải, quấy” với Bắc - Việt Nam để kết thúc chiến tranh Việt Nam trên thế mạnh, tạo điều kiện cho miền Nam - Việt nam trở thành một Nam - Triều Tiên thứ 2. Khi mới bước vào nhiệm kỳ tổng thống thứ nhất, Níchxơn đã có lần nói với Kitxingiơ: “Tôi đã quyết định. Chúng ta phải đánh đến con bài cuối cùng. Chúng ta có đủ sức mạnh để tiêu diệt khả năng chiến tranh của Hà Nội. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ chúng ta có gan dùng sức mạnh đó hay không? Điều phân biệt giữa tôi với Giônsơn là tôi có thừa khả năng đó”.
Trong tháng 10 và tháng 11-1972, cùng với hàng vạn tấn dụng cụ chiến tranh cấp tốc đổ vào Nam - Việt nam cho chính phủ Ngụy quyền tay sai, Mỹ lại đẩy mạnh các cuộc đánh phá bằng “pháo đài bay” B52 lấn dần ra vĩ tuyến 20, cường độ tháng sau gần gấp đôi tháng trước (tháng 10 có 408 lần chiến xuất kích thì tháng 11 là 786 lần chiếc).
Ngày 14-11-1972, Kitxingiơ thừa lệnh tổng thống Níchxơn đi Pari, trong buổi họp ngày 19-11 với Lê Đức Thọ đã đưa ra 69 điểm bổ sung và như vậy là Mỹ đòi phải xét lại hầu như toàn bộ bản dự thảo Hiệp định. Những gì mà hai phía của Hội nghị Pari đã thỏa thuận được trong tháng 10 có nguy cơ bị xóa bỏ. “Hòa bình đã ở trong tầm tay” bị chính Níchxơn - Kitxingiơ đá ra xa lơ xa lắc. Con em hai dân tộc Mỹ - Việt tiếp tục ngã xuống. Chỉ vì danh lợi mù quáng và ích kỷ, Nichsơn đã lừa dối dân tộc mình  một cách hết sức thô bỉ.
Ngày 23-11, có lệnh từ Nhà Trắng: bỏ họp. Ngày hôm sau, 24-11 lại có lệnh: họp tiếp. Sự có mặt của Kitxingiơ ở Pari trong những ngày này chỉ là biểu hiện của thủ đoạn hoãn binh, vờ vịt để xoa dịu dư luận trong nước và thế giới, che dấu một âm mưu đang được triển khai ráo riết tại Oasinhtơn.
Một bức điện mật do đích thân Hâydơman, chánh văn phòng Nhà Trắng chuyển đến cho Kitxingiơ: “Ta cần tránh làm bất cứ điều gì có vẻ như chúng ta phá vỡ thương lượng một cách đột ngột. Phải khôn khéo để làm sao nếu xảy ra tan vỡ thì phải do phía họ gây ra chứ không phải do chúng ta. Chúng ta phải thương lượng ở mức càng thấp càng hay mà không gây sự huyên náo, về thực tế là chúng ta đẩy mạnh ném bom và do đó nối lại chiến tranh”. Ngay từ 2-11-1972, dù chưa có kết quả bầu cử nhưng đã chắc là trúng cử, Níchxơn đã chơi nổi kiểu cao bồi thời “Miền Tây hoang dại”: ra lệnh dùng B52 tiếp tục đánh phá miền Bắc Việt Nam và nói toạc ra: “Kế hoạch bây giờ là gây sức ép ngày càng tăng đối với Hà Nội bằng việc ném bom gần khu phi quân sự và rồi tiến dần ra phía Bắc mỗi ngày một ít”.
Ngày 5-12-1972, Hâydơman lại chuyển cho Kitxingiơ một bức điện mật: “Tổng thống đang nóng lòng muốn dùng B52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng”. Đến phiên họp ngày 12-12 thì Hội nghị đi đến bế tắc hoàn toàn. Kitxingiơ lớn tiếng đe dọa Lê Đức Thọ rằng hoặc là nhượng bộ theo những yêu cầu của Mỹ hoặc Bắc Việt Nam sẽ phải chịu một chiến dịch ném bom mạnh mẽ, và tuyên bố ngừng họp vô thời hạn. Ngày 13-12, Lê Đức Thọ rời Hội nghị về nước.
Ngày 14-12-1972, vừa về đến Oasinhtơn, Kitxingiơ được triệu tập ngay đến Nhà Trắng tham dự một cuộc họp quan trọng và tuyệt mật, Trong cuộc họp đó, Níchxơn đã đưa ra cái quyết định đã từng nung nấu từ lâu của mình: “Mở cuộc tập kích lớn vào Hà Nội trong vài ba ngày tới”. Cùng ngày, Níchxơn đã gửi tối hậu thư cho Bắc - Việt Nam đòi thảo luận nghiêm chỉnh trong vòng 72 giờ. (Đúng là thằng điên!).
Sau này Níchxơn có nói với một nhà bình luận rằng ông ta ra lệnh các cuộc ném bom bởi vì “Người Nga và người Trung Quốc có thể nghĩ rằng họ đang giao tiếp với một con người điên và vì vậy mà tốt hơn hết là buộc Bắc - Việt Nam đi vào một giải pháp trước khi thế giới bị thiêu đốt trong một cuộc chiến tranh lớn hơn”. Còn Kitxingiơ thì viết trong hồi ký của mình: “Haig chủ trương dùng B52 đặc biệt tại phía bắc vĩ tuyến 20, với lý do rằng chỉ có một “cú sốc” ồ ạt mới có thể đưa Hà Nội trở lại bàn Hội nghị. Níchxơn chấp nhận quan điểm của Haig. Tôi cũng ủng hộ quan điểm đó… Vì rằng ngày nay tôi vẫn nghĩ như vậy - Níchxơn và Haig cơ bản đúng. Khi đó chúng tôi chỉ có hai lựa chọn: dùng một biện pháp ồ ạt, gây choáng để áp đặt ý chí của chúng tôi lên tình hình và chấm dứt chiến tranh nhanh chóng hay là để cho sự việc buông trôi vào một vòng đàm phán không kết quả nữa…
Phùng Thế Tài, tư lệnh phòng không - không quân Bắc - Việt Nam thời kỳ đó viết trong hồi ký “Kính dâng Bác chiến thắng lịch sử này” của mình:
“Khẩn trương nhưng lặng lẽ, với phương châm giữ bí mật tuyệt đối đến phút cuối cùng, cả bộ máy chiến tranh không quân khổng lồ của nước Mỹ hùng mạnh, mở hết công suất hoạt động. Nhiều máy bay chiến lược B52 ầm ầm nổ máy chuyển từ những căn cứ trong nước Mỹ sang tăng cường cho căn cứ Guam và Utapao, nâng tổng số B52 ở 2 căn cứ này lên cao nhất từ trước đến nay: 197 chiếc, gần bằng một nửa tổng số B52 của toàn nước Mỹ. Cấp tốc thành lập bộ chỉ huy lâm thời sư đoàn không quân chiến lược mang số hiệu 57 để chỉ huy chung 2 căn cứ này. Nâng tổng số tàu sân bay ở Vịnh Bắc Bộ lên 6 chiếc. Nâng tổng số máy bay chiến thuật lên trên 1.000 chiếc, trong đó có một phi đoàn F111, 48 chiếc mới chuyển từ Mỹ sang. Bộ tư lệnh không quân chiến lược SAC đóng ở miền Tây nước Mỹ, Bộ tư lệnh Tập đoàn không quân số 7 đóng ở Sài Gòn được lệnh sẵn sàng chiến đấu cao nhất, chuẩn bị thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt.
Níchxơn đặt nhiều hy vọng trong canh bạc cuối cùng này. Vốn sùng bái sức mạnh của bom đạn, Níchxơn tin vào con chủ bài B52 với sức tàn phá ghê gớm của nó, có thể giúp ông ta đạt được những gì mà suốt 4 năm trên bàn đàm phán, những người trước không đạt được. Những kẻ cầm đầu bộ máy chiến tranh đồ sộ của nước Mỹ tin chắc rằng Bắc - Việt Nam sẽ không thể nào chịu nổi những “cú sốc” ồ ạt bởi hàng ngàn tấn bom rải thảm của B52 từ trên độ cao 30.000 phít (1 feet ≈ 33 cm) chụp xuống những khu phố đông dân…
Nhưng như lịch sử đã chứng tỏ, một lần nữa kẻ thù của chúng ta đã đánh giá sai đối thủ của mình. Và do đó đã dẫn đến một kết cục thảm hại như chúng đã gánh chịu trước lịch sử: thua tan tác trong trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Có điều đáng chú ý là cho đến ngày 16-12-1972, nghĩa là trước cuộc tập kích chiến lược chỉ có 2 ngày, Níchxơn còn đẩy Kítxingiơ ra họp báo, thực hiện vụ lừa bịp cuối cùng. Trong cuộc họp báo này, người đại diện chính phủ Mỹ lại leo lẻo nói rằng, chỉ cần vài phiên họp nữa, hoàn tất một số vấn đề kỹ thuật, văn bản Hiệp định sẽ được hoàn thành, và trắng trợn đổ lỗi cho đối phương đã gây khó khăn cho việc ký kết “.
F111 là loại máy bay hiện đại đắt tiền nhất trong số các loại máy bay hồi đó của Mỹ, 15 triệu đô la một chiếc, với bộ cánh có thể “cụp” vào hoặc “xòe” ra để tăng hoặc giảm tốc độ. Đặc biệt, trên F111, ngoài lượng bom lớn hơn trên loại F4, nó còn được trang bị một hệ thống ra-đa cực kỳ tinh xảo và một hệ thống tự động bay theo địa hình, nghĩa là tùy theo vật chướng ngại ở trước mặt mà ra-đa phát hiện được qua hệ thống máy tính, bộ phận lái tự động nâng máy bay lên hoặc hạ xuống tùy theo địa hình. F111 cũng nhờ được trang bị như thế mà có thể bay trong mọi thời tiết, bay ở độ cao cực thấp, chỉ cách mặt đất 50 m ở bất kỳ địa hình nào, dù đồng bằng hay đồi núi, và khi cần thả bom, nó chỉ cần kéo lên bay bằng ở độ cao 500 m, thả bom xong là cụp cánh lại vọt ra khỏi khu vực mục tiêu. Tuy nhiên về khả năng “cường kích” thì không thể bằng “siêu pháo đài bay” B52. “Siêu pháo đài bay” B29, loại đã làm tan hoang các thành phố Nhật Bản hồi chiến tranh thế giới thứ hai, so với “siêu pháo đài bay” này, chẳng nhằm nhò gì. Mỗi chiếc B52 trị giá: 7.946.700 đô la. Đó là loại máy bay đồ sộ như một tòa nhà nhiều tầng, có sải cánh (khoảng cách giữa hai đầu mút của 2 cánh) dài hơn một nửa chiều dài sân bóng đá, chứa được hơn 100.000 lít xăng để phục vụ cho 8 động cơ phản lực cực mạnh. B52 được trang bị hàng chục máy thu nhận sóng ra-đa đối phương ở hàng chục tần số khác nhau, tự động phát nhiễu chống tất cả các loại ra-đa nào uy hiếp đến an toàn của nó, và một hệ thống máy tính điện tử tinh vi để tính tất cả các thông số bay và ném bom. Chưa kể ra-đa ngắm bắn, ra-đa ném bom cực kỳ tinh xảo, có thể nhìn rõ mặt đất bất kể ngày đêm, có thể phân biệt đến từng đường phố, con sông, chiếc cầu… Một chiếc B52 mang được hơn 10 tấn bom, rải thảm tàn phá được một dải có bề rộng 200 mét, kéo dài suốt 1.000 mét trên mặt đất. Quả là hết sức tàn bạo nếu đem B52 đi rải thảm bom xuống một thành phố đông dân thường vô tội.
Lúc B52 mới được đưa vào sử dụng trên bầu trời Việt Nam, nhiều quan chức Mỹ quá tin tưởng mà huênh hoang rằng đó là loại máy bay không thể bị bắn rơi. Vào tháng 11-1972, hãng UP1 phát đi từ Băng Cốc - Thái Lan: “Một quan chức không quân Mỹ nói rằng nếu Cộng sản có thể bắn rơi một chiếc B52 giá 9 triệu đô la và có bằng cớ thì trị giá của chiến thắng đó ngang với việc đánh chìm một tàu chiến Mỹ”.
Vào ngày 18-12-1972, Mỹ ồ ạt tấn công, đánh phá dữ dội nhiều đợt vào Hải Phòng và Hà Nội; mở màn chiến dịch tập kích chiến lược ròng rã suốt 12 ngày đêm bằng không quân có qui mô lớn nhất trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong 12 ngày đêm (từ 18-12 đến 29-12), không quân Mỹ đã thả 40.000 tấn bom (theo Hà Văn Lâu thì: “Đó là số lượng tương đương với 5 quả bom nguyên tử loại đã thả xuống thành phố Hiroshima.”), xuống Hải Phòng và Hà Nội. Nhất là Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã là mục tiêu chủ yếu, là nơi tập trung cao độ các cuộc oanh kích tàn bạo nhất của cuộc tấn công chiến lược bằng không quân Mỹ này.
Tuy nhiên Bắc - Việt Nam đã không bị khuất phục bởi những “cú sốc” như bè lũ hiếu chiến Níchxơn từng tưởng tượng. Hà Nội, Thủ đô của nước Việt Nam, trái tim của Dân tộc Việt, trở thành nơi đọ sức cuối cùng của Cách mạng Việt Nam với Đế quốc Mỹ, trở thành tiền đồn trong cuộc chống cự đòn tập kích chiến lược lớn nhất và ác liệt nhất của không lực Mỹ. Nhân dân cả nước Việt Nam hướng về Hà Nội, hồi hộp chờ đợi rồi cảm thấy tự hào. Nhân dân thế giới hướng về Hà Nội, từ lo âu đến kinh ngạc và cảm phục. Quân dân Hà Nội đã bình tĩnh đánh trả một cách kiên cường và cũng thật tài tình, đầy hiệu quả hết cuộc công kích này đến cuộc công kích khác của máy bay Mỹ. Qua 12 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân dân Thủ đô đã bắn rơi 32 máy bay địch, trong đó có 23 chiếc B52, bắt sống nhiều phi công. Không quân chiến lược Mỹ đã bị một đòn tiêu diệt nặng nề nhất kể từ ngày được thành lập. Hãng Roitơ, ngày 29-12-1972 viết: “Các nhà quan sát quân sự ở Oasinhtơn ước tính rằng Mỹ có thể mất hết máy bay B52 trong khoảng 3 tháng nữa, nếu Mỹ tiếp tục ném bom Bắc - Việt Nam ở mức độ hiện nay…”.
Trong “Lời phán quyết về Việt Nam” của Emtơ (Amter) có viết: “Tổng thống đánh giá thấp tài năng của các lực lượng phòng không Bắc - Việt Nam… Tài bắn chính xác mới phát hiện ra của các tay súng Bắc - Việt Nam đã làm cho Lầu Năm Góc ngạc nhiên đến mức cuối tháng 12, bộ tổng tham mưu Liên quân đòi chấm dứt ném bom”.
Ngày 29-12-1972, cuộc tập kích chiến lược của Mỹ kết thúc, Kítxingiơ đề nghị nối lại thương thuyết. Ngày 30-12, Nhà Trắng công bố rằng Kítxingiơ và Lê Đức Thọ tổ chức cuộc họp tiếp theo vào ngày 8-1-1973.
Xã luận báo Nhân Dân số ra ngày 30-12-1972 có đoạn: “Dân tộc Việt Nam anh hùng đã chấp nhận cuộc thách thức và đã trả lời đích đáng. Thử hỏi, nếu chẳng may có một vài biểu hiện của sự yếu đuối và lùi bước thì sẽ ra sao? Kẻ thù hung hãn sẽ lấn tới ở nước ta và các nơi khác. Chúng sẽ thị uy sức mạnh khắp chốn, khắp nơi.
May thay, thời đại đã tạo nên một sức mạnh Việt Nam, một sức mạnh thần kỳ có thể chấp nhận mọi sự thách thức của bọn hung nô man rợ”.
Thành tích của quân dân Thủ đô Hà Nội trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của Đế quốc Mỹ là:
-         Bắn rơi 358 máy bay Mỹ (trong tổng số 4.181 chiếc trên toàn miền Bắc).
-         Bắn rơi 23 máy bay B52 (trong tổng số 68 chiếc trên toàn miền Bắc).
Ngày 28-12-1972, Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên dương công trạng: “Hà Nội đã lập công to, xứng đáng là Thủ đô anh hùng của cả nước”.
Trong phiên họp đầu của Hội nghị lần này, Lê Đức Thọ đã phê phán Kítxingiơ kịch liệt, lên án tội ác của Mỹ leo thang đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và các nơi khác. Đến ngày 23-1-1973, Hiệp định Pari về Việt Nam đã được Lê Đức Thọ và Kítxingiơ ký tắt. Kết quả là Hiệp định này vẫn giữ vững tinh thần nội dung của bản dự thảo Hiệp định đã thỏa thuận ngày 20-10-1972, một hai chỗ Việt Nam có lợi thêm, có chỗ Việt Nam mềm mỏng hơn nhưng không mất gì.
Ngày 27-1-1973, các Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam - Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn ký chính thức. (“Bố” Mỹ đã chịu ký thì “con” Thiệu có dám làm mình làm mẩy nữa không?).
Cũng theo Emtơ thì chính quyền Níchxơn “đã làm hết sức mình để thuyết phục công chúng Mỹ rằng việc ném bom đã làm người Bắc - Việt Nam có thái độ hợp tác hơn tại bàn đàm phán hòa bình. Một cuộc thăm dò dư luận Galớp vài tuần sau đó cho thấy 57% người được hỏi ý kiến cho rằng cuộc ném bom Lễ Giáng Sinh đã đóng góp vào giải pháp hòa bình”, tuy nhiên: “Bàn tay mặc cả của Níchxơn (tại cuộc hội đàm hòa bình Pari) đã bị yếu đi nhiều. Món mặc cả lớn cuối cùng của ông ta đã được sử dụng một cách vô ích và bây giờ chính quyền của ông ta lại ở dưới sức ép còn mạnh hơn trước, đòi đạt được một hiệp định một cách không chậm trễ”, và: “Nếu nói, (rằng cuộc ném bom Lễ Giáng Sinh đã đóng góp vào giải pháp hòa bình) một cách mỉa mai, thì đó là đúng. Vì sự thất bại quân sự và chính trị của nó mà việc ném bom Hà Nội và Hải Phòng đã làm cho Hiệp định Pari có thể ký được. Bởi vì nó buộc Níchxơn và Kítxingiơ phải chấp nhận chính những điều khoản mà họ đã bác bỏ vào tháng 10, tháng 11 và tháng 12. Trong khi sự đe dọa ném bom ào ạt dường như có thể cho Níchxơn một lực bẩy đối với người Bắc - Việt Nam, thì trận đánh Hà Nội đã cho thấy sức mạnh đó rành rành có thể bị chuyển thành sự yếu kém ngoại giao như thế nào”.
Còn Stanley Karnow thì viết trong “Việt Nam, một thiên sử” (Việt Nam & history): “Níchxơn huênh hoang “đạt được hòa bình trong danh dự” nhưng thỏa ước mới không khác gì dự thảo cũ. Dưới góc độ một công cụ ngoại giao, cuộc ném bom tháng chạp tỏ ra là thừa. Nhưng đó vẫn là một cố gắng lớn trong “học thuyết thằng điên” của Níchxơn”.
Lịch sử đã cho thấy rằng việc ký kết Hiệp định Pari đã là một thất bại không tránh khỏi của chính quyền Mỹ thời Níchxơn và là một thắng lợi to lớn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là thắng lợi của phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ cũng như nhân dân thế giới.
Quân Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu thì quân ngụy Sài Gòn sẽ trở nên “mồ côi”, dù có thể còn vùng vẫy được thì cũng như con rắn đã nằm trong rọ chờ phán quyết cuối cùng. Nguyễn Văn Thiệu nói với Kítxingiơ: “Giờ các ông đã công nhận sự có mặt của quân đội Bắc - Việt Nam ở đây. Nhân dân Việt Nam cho rằng chúng tôi đã bị Hoa Kỳ bán đứng. Bắc - Việt Nam sẽ thắng trong cuộc chiến tranh”, “Nếu chúng tôi chấp nhận những điều nêu trong Hiệp định, chúng tôi sẽ tự sát”, và “Mất một nước nhỏ như miền Nam - Việt Nam thì có hề gì với Mỹ đâu? Đối với các ông, chúng tôi chỉ lớn hơn một dấu chấm trên bản đồ thế giới. Nếu các ông muốn từ bỏ cuộc chiến tranh, chúng tôi sẽ chiến đấu một mình cho đến khi nào chúng tôi hết sức, và đến lúc đó chúng tôi sẽ chết…”. Thật là những lời thảm hại!
Nói thế nhưng rồi Thiệu vẫn phải ký vào bản Hiệp định. Theo nhiều nhà phân tích phán đoán thì hình như đã có những cam kết ngầm bằng “miệng” của Níchxơn đối với Thiệu rằng dù sao thì Mỹ vẫn không bỏ rơi chính quyền Sài Gòn và sẽ quay trở lại Nam - Việt Nam nếu Bắc - Việt Nam vi phạm Hiệp định Pari.
Ngày 9-8-1974, Vụ Oatơghết đã buộc Níchxơn phải từ chức, về vườn thành kẻ tiểu nhân thay vì được làm vĩ nhân. Nguyễn Văn Thiệu thực sự choáng váng trước sự kiện này: người cha đỡ đầu cho mình đã “thăng”.
Ngày 10-8, Fo (Gerald R. Ford) lên làm tổng thống Mỹ, có nói: “Những cam kết hiện tại nào Hoa Kỳ đã đưa ra trước đây mà còn giá trị, thì chính quyền của tôi sẽ hoàn toàn tôn trọng”. Nhưng thời thế đã đổi thay. Tháng 11-1974, trong cuộc bầu cử Quốc hội, phe Dân chủ thắng lớn, giành được 34 ghế Hạ viện và 3 ghế Thượng viện. Kết quả này giúp cho Đảng Dân chủ trở thành đa số áp đảo với tỷ lệ 291 - 144 tại Hạ viện và 61 - 39 tại Thượng viện. Người Mỹ đã quá chán ghét cuộc chiến tranh Việt Nam, sẵn sàng từ bỏ nó và cố quên đi càng sớm càng tốt cái chương nhớp nhúa và hổ thẹn nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Tình hình đó trong nội bộ nước Mỹ đã dẫn tới trận đánh Phước Long như là một hành động thăm dò của Bắc - Việt Nam đối với phản ứng của Mỹ. Trận đánh mở màn ngày 13-12-1974. Thị xã Phước Long bị thất thủ gần như ngay từ đầu. Ngày 7-1, toàn bộ tỉnh Phước Long đã do quân Giải phóng kiểm soát. Đại tá Xămmơ (Harry Summers) đã nhận xét ngắn gọn về ý nghĩa trận đánh này như sau: “Trận đánh nhỏ ít được biết đến ở Phước Long là một trong những trận đánh mang tính chất quyết định nhất, vì nó đánh dấu việc Mỹ từ bỏ đồng minh cũ của mình… trước sự vi phạm trắng trợn Hiệp định Pari, và nó được thiết kế một cách có tính toán kỹ lưỡng để vi phạm trắng trợn như vậy rõ ràng là nhằm thăm dò thái độ của Mỹ. Tổng thống Fo giới hạn một cách nhu nhược sự phản ứng của mình chỉ trong một công hàm ngoại giao. Miền Bắc - Việt Nam đã được bật đèn xanh cho việc chinh phục miền Nam - Việt Nam”.
Trên thực tế, Hà Nội nhận được các tin tình báo nói rằng tàu sân bay Intơprai (USS Enterprise) của Mỹ và các lực lượng hộ tống đã rời Philippin tiến gần tới Việt Nam và sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ ở Ôkinaoa đã được đặt trong tình trạng báo động. Có một số hoạt động tại căn cứ hải quân Mỹ ở vịnh Subic (Philippin) có thể là dấu hiệu người Mỹ quay trở lại. Sau này vị tình báo chiến lược, hoạt động đơn tuyến của Bắc - Việt Nam là Phạm Xuân Ẩn nhớ lại: “Tôi đã nói rằng người Mỹ sẽ không đánh đâu. Mặc dù người Mỹ có một vài hành động, nhưng đó là những hành động trống rỗng. Tôi đã báo cáo với Hà Nội rằng người Mỹ sẽ không bao giờ trở lại nữa, thế nhưng vẫn có những hoài nghi. Hà Nội lại cho thử một trận đánh nữa ở Buôn Mê Thuột để xem người Mỹ có can thiệp hay không. Chỉ đến khi đó, Hà Nội mới tin điều tôi nói là đúng…”.
Quân Giải phóng đánh Buôn Mê Thuột vào rạng sáng ngày 10-3-1975 và chiều ngày hôm sau đã làm chủ thị xã đó.
Tinh thần chiến đấu thì rệu rã, phán đoán chiến lược thì sai lầm, nên khi bị đánh trúng chỗ hiểm, quân tướng Sài Gòn ở Tây Nguyên nói riêng và ở toàn Nam - Việt Nam nói chung trở nên hoảng loạn, liên tiếp phạm thêm những sai lầm chết người khác. Hệ thống phòng ngự Tây Nguyên vỡ lở nhanh chóng. Ngày 16-3, quân Sài Gòn rút chạy khỏi Kon Tum và Plâycu theo đường số 7. Quân Giải phóng truy kích, cắt đường số 7 diệt quân tháo chạy rồi tiếp tục phát triển xuống Khánh Dương, diệt lực lượng sư đoàn 23 địch… Ngày 17-3, quân Giải phóng đã cơ bản đánh bại cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Mê Thuột.
Trong thời gian đó, sư đoàn dù quân Sài Gòn ở Đà Nẵng đang rút về Sài Gòn và thay thế bằng sư đoàn lính thủy đánh bộ; đồng thời xuất hiện hiện tượng cho thấy quân Sài Gòn có thể bỏ từ bắc Huế dến sông Thạch Hãn, bắt đầu thực hiện kế hoạch co cụm chiến lược lớn trên toàn miền Nam. Đây là một bước suy sụp mới rất nghiêm trọng của quân ngụy Sài Gòn.
Ngày 18-3-1975, diễn ra cuộc họp của Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương tại Hà Nội, trong bối cảnh cục diện chiến trường chuyển biến nhanh đến không ngờ. Hội nghị đã đi đến nhất trí hạ quyết tâm hoàn thành kế hoạch 2 năm 1975-1976 ngay trong 1975. Như thế cuộc tiến công dự định chiến lược lúc ban đầu phải được nâng lên thành cuộc tổng tiến công chiến lược.
Những nhà quan sát bi quan nhất cũng không thể nào ngờ sự tan tác nhanh đến thế của quân đội Sài Gòn - một quân đội mà các nhà phân tích quân sự xếp vào hàng thứ tư trên thế giới về binh lực và trang bị vũ khí: giữa tháng 3, bỏ chạy khỏi Tây Nguyên, cuối tháng 4 mất Huế - Đà Nẵng, giữa tháng 4 mất hết các tỉnh miền Trung…
Ngày 9-4, quân Giải phóng đánh Xuân Lộc - một cứ điểm trọng yếu án ngữ đường tiến tới Sài Gòn do sư đoàn 18 là sư đoàn tinh nhuệ nhất của quân đội Sài Gòn trấn giữ. Sau hai tuần giao tranh hết sức ác liệt, ngày 22-4, Xuân Lộc rơi vào tay quân Giải phóng.
Ngày 26-4, mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh, đánh vào Sài Gòn, kết thúc 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã sẵn sàng. Cánh quân hướng Đông của quân Giải phóng được lệnh nổ súng trước.
Trong buổi sáng ngày 30-4-1975, các binh đoàn đột kích thọc sâu đã từ các hướng đồng loạt tiến công vào nội đô Sài Gòn và đến trưa thì chiếm xong 5 mục tiêu chủ yếu được xác định là Dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát và sân bay Tân Sơn Nhất. Người vừa được trao quyền Tổng thống Việt Nam Cộng hòa bị dẫn đến đài phát thanh đọc lời đầu hàng: “Tôi là Dương Văn Minh, tổng thống của chính quyền Sài Gòn. Tôi kêu gọi bỏ vũ khí đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng; giải tán cơ cấu chính quyền từ trung ương đến địa phương và giao quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam - Việt Nam”.
Đến chiều, thành phố Sài Gòn hoàn toàn được giải phóng.
Cuộc kháng chiến ròng rã 30 năm, vượt qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ với biết bao nhiêu mất mát hy sinh, chống quân xâm lược hết Thực dân Pháp đến Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng nhằm đổi lại quyền lợi chính đáng là Độc lập, Tự do và Thống nhất nước nhà của dân tộc Việt đã đạt đến thành công.
***
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là cuộc chiến tranh kéo dài nhất trong số 8 cuộc chiến tranh của nước Mỹ: 11 năm 1 tháng (cuộc chiến tranh kéo dài đứng hàng thứ hai là cuộc nội chiến Nam - Bắc cũng chỉ có 4 năm). Nhưng cuộc chiến tranh đó đã đem lại lợi ích gì cho nước Mỹ? Chỉ là một con số 0 to tướng. Không những thế nó đã làm cho nước Mỹ phải hao người, tốn của ghê gớm và phải chuốc lấy một nỗi hổ thẹn ê chề do tính ngạo mạn, mù quáng gây ra. Chúng ta có thể liệt kê ra những hổ thẹn ấy:
1 - Cường quốc số 1, giàu có nhất thế giới đã thực sự thua trận trước một nước nhược tiểu, nghèo nàn và lạc hậu:
Chỉ vì một não trạng hoảng sợ trước một điều hoang đường là sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Nam Á mà Mỹ đã gây ra chiến tranh ở Việt Nam. Và còn vì điều như Allman viết trong “Hai mươi năm dính líu của Mỹ ở Đông Dương: Điều mỉa mai của lịch sử nước Mỹ”, như sau:
“Một sai lầm dai dẳng suốt ¼ thế kỷ của chính sách Mỹ là dựa vào niềm tin không suy suyển về sức mạnh của Mỹ có thể tự tạo ra cho nó tính hợp pháp và làm được tất cả.
Từ Rostow, Achesơn, Dean Rusk đến Kissinger đều có những lời nói như: “Chúng ta là nước hùng mạnh nhất thế giới”, “không một nước châu Á vùng nhiệt đới nào nhỏ bé, nghèo nàn, không phải là người da trắng mà lại không bị gục ngã trước hỏa lực của Mỹ nếu như thời gian ném bom đủ dài, nếu như con số người chết cứ cộng mãi vào đủ lớn”.
Trong tiểu luận “Điều mỉa mai trong lịch sử nước Mỹ”, Niebluer, một nhà thần học đã kết luận: “Điều mỉa mai không phải là đến tận phút chót (của thất bại), nhiều người Mỹ vẫn tưởng là mình đang thắng, mà là gần như một thời gian dài, người ta vẫn tưởng rằng thắng lợi chỉ cần cố gắng một chút là có thể giành lấy… Chúng ta chưa hề bao giờ tiên đoán là nước hùng mạnh nhất trái đất lại phải chịu đựng cái điều ước mơ làm chủ lịch sử và bị cự tuyệt một cách mỉa mai đến như vậy”.
Trong “Mỹ đã kiệt sức vì chiến tranh Việt Nam” (Tuần tin tức, 8-2-1973) có viết: “Sự thất bại đầu tiên và đau đớn nhất trong lịch sử quân sự Mỹ” và “Một cuộc chiến tranh không sản sinh ra chiến thắng huy hoàng, không sản sinh ra anh hùng dân tộc, và không sản sinh ra những bài ca rung động lòng người…”.
Theo Don Luce, J. Sonner: “Thất bại của Mỹ ở Việt Nam chủ yếu là do không hiểu biết, không nắm được tư tưởng, ý nghĩa và tính cách của người Việt Nam mà đã dùng vũ lực tàn bạo. Ở Việt Nam, người Mỹ không mù quáng nhưng họ là những người điếc và câm”.
2 - Cuộc chiến tranh Việt Nam làm xuất hiện nhiều mâu thuẫn gay gắt nhất, nhiều sự bội tín và lừa dối nhất trong chính giới Mỹ, bị toàn thể loài người tiến bộ, kể cả nhân dân Mỹ oán trách, chê cười, nguyền rủa:
Tướng tư lệnh chiến trường Oétmolen, từ một người thận trọng; có phần khiêm tốn, do được tâng bốc lên tận mây xanh, được chính quyền Giônxơn đặt toàn bộ hy vọng vào tài năng ông ta nên cũng được “cưng chiều”, được chu cấp đầy đủ nhất mọi thứ mà ông ta đòi hỏi, đã trở thành kẻ huênh hoang, phát biểu nhiều lời khinh xuất, để rồi mau chóng trở thành kẻ tội đồ, bị chính những người tâng bốc quay lại chửi bới thậm tệ. Ông này không vừa, đổ vấy tất cả trách nhiệm thua trận cho chính phủ Mỹ và như vậy càng làm cho mọi người khinh khi.
Chính quyền Níchxơn là chính quyền cay cú nhất, lồng lộn nhất, điên khùng nhất. Khi đã giở mọi thủ đoạn đấm đá, hù dọa mà “nhân dân Việt Nam quyết không sợ”, chính quyền Níchxơn bèn giở trò bỉ ổi cuối cùng là tìm kiếm xin xỏ sự trợ giúp từ hai đối thủ tiềm tàng của mình là Liên Xô và Trung Quốc. Chính quyền Níchxơn cũng là chính quyền lừa dối trơ tráo, “khủng khiếp” nhất trong lịch sử nước Mỹ; lừa dối đối phương đã đành, còn lừa dối lẫn nhau, lừa dối đồng minh (chính quyền Thiệu), lừa dối nhân dân Mỹ, lừa dối thế giới và tự huyễn hoặc lừa dối chính bản thân mình về khái niệm “danh dự”. Do đó chính quyền Níchxơn đã gặt hái thất bại ê chề nhất, bị nguyền rủa nhiều nhất trong lịch sử nước Mỹ. Níchxơn là một tổng thống phải tự kết thúc sự nghiệp chính trị của mình một cách đáng xấu hổ nhất, nhục nhã nhất trong các đời Tổng thống Mỹ.
3 - Là một nước đứng đầu về sự hùng mạnh, có những lời tuyên ngôn bất hủ như một chân lý sáng ngời, có vai trò cầm cân nảy mực, gìn giữ trật tự thế giới mà lại hành động một cách hoàn toàn trái ngược, tàn ác ở Việt Nam, một đất nước bé nhỏ, chỉ muốn được thống nhất, độc lập, bình đẳng, tự do mưu cầu hạnh phúc mà trước đó cũng như sau này chưa bao giờ động chạm đến quyền lợi của nước Mỹ.
Một người anh Đồng Minh đã dội xuống đầu người em đi theo Đồng Minh tất cả sức mạnh áp đảo về vũ khí, bom đạn (trừ bom nguyên tử), gây ra biết bao nhiêu sự hủy diệt, đau thương tang tóc cho dân thường vô tội ở cả hai phía một cách hoàn toàn vô tích sự, để rồi phải chịu thất bại không thể chối cãi được, phải ký vào cái không muốn ký mà bỏ của chạy lấy người, bỏ đi, mặc cho “đệ tử” bị “nện” chết, không quay lại cứu mà nói đến danh dự thì thật là nực cười!
Tháng 11-1982 ở Mỹ đặt đài tưởng niệm quân nhân Mỹ đã chết trận ở Việt Nam. Số tên người được khắc trên đó là 57.939. Họ là ai trước khi là quân nhân Mỹ? Là con em nhân dân Mỹ! Tại sao họ bị điều động đến một đất nước nhỏ bé cách nước Mỹ nửa vòng trái đất để chết ở đó, và chết để làm gì, chết cho ai? Có phải là họ chết để bảo vệ quê hương họ, cho sự toàn vẹn lãnh thổ của nước Mỹ không? Chắc rằng đứng trước bức tường tưởng niệm bằng đá hoa cương ấy, không một người Mỹ nào cảm thấy tự hào mà trái lại, chỉ thấy xót thương, tủi nhục.
Có thể là vô tình nhưng bức tường đó đã là một chứng tích của tội ác. Tội ác ấy là do ai gây ra nếu không phải là những tập đoàn lãnh đạo nước Mỹ đã gây ra cuộc chiến tranh vô nghĩa ở Việt Nam?
Theo Emtơ (Lời phán quyết về Việt Nam) thì cuối năm 1970, tổ chức “Binh lính đoàn kết chống chiến tranh Việt Nam” đã ra tuyên bố:
“Mười năm qua, đất nước chúng ta tham gia vào một cuộc chiến tranh lâu dài, mòn mỏi, tốn kém và thê thảm ở Việt Nam. Phần đông người Mỹ không ủng hộ cuộc chiến tranh đó, ngày càng có thêm nhiều người phản đối, kể cả những binh sĩ đang làm nhiệm vụ. Chúng tôi, những người lính, chúng tôi buộc phải chịu đau khổ nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam thất bại này. Nhiều người trong chúng tôi bị bắt lính trái với ý muốn của chúng tôi, để thực hiện một cuộc chiến tranh không hợp pháp, không đạo đức và không chính nghĩa”.
Ngày 19-4-1971, 2.000 cựu binh sĩ về Oasingtơn gặp Quốc hội, tại nghĩa địa Arlington đã tổ chức rước đuốc phản đối đến Nhà Trắng. Đỉnh cao là lúc các cựu binh sĩ vứt bỏ các huân chương về Việt Nam của họ trên thềm nhà Quốc hội để phản đối chiến tranh… Các cựu chiến binh cũng đã dẫn đầu những đoàn biểu tình tại Oasinhton, vào ngày 24-4 là 300.000 người, ngày 1-5 là 200.000 người, đòi “Chấm dứt chiến tranh hoặc chấm dứt chính phủ”...
Bản thân Kítxingiơ, trong “Những năm ở Nhà Trắng” có viết: “Tôi nhận được những bức thư lời lẽ gay gắt không thể tưởng tượng được của những người xưa kia đã từng là bạn bè, của những công dân đầy giận dữ. Những lời buộc tội như “phi đạo đức”, “lừa bịp” được tung ra bừa bãi, “dã man” là một tính từ được ngươi ta ưa dùng, nhiều chính phủ nước ngoài cũng lớn tiếng chỉ trích. Chính phủ Thụy Điển so sánh chúng ta với bọn Quốc Xã. Không một đồng minh NATO nào ủng hộ chúng ta”.
Một học giả Nhật là Maruyama Shizuo đánh giá: “Khi tôi gọi nó là “chiến tranh bằng không quân”, tôi muốn đề cập đến một tình trạng trong đó lực lượng không quân thay thế lực lượng lục quân và đảm nhận cuộc chiến đấu. Con số bộ binh của Mỹ ở Việt Nam vào cuối tháng 1-1973 còn không quá 25.000. Tuy thế, hồi tháng 12-1972, Mỹ đã mở ra ở Đông Dương một cuộc chiến tranh không quân tàn bạo nhất trong toàn bộ lịch sử loài người”.
Hãng UPI công bố ngày 16-1-1973, số bom Mỹ đã ném từ năm 1965 đến năm 1972 là 7.438.052 tấn.
Harrison, Roger Pic và một số nhà nghiên cứu phương Tây khác cho biết: Trong 8 năm, Mỹ đã ném xuống Việt Nam 7.800.000 tấn bom. (Trong đó có B52 đã bay 124.522 lần xuất kích và ném 2.949.000 tấn hay 1/3 tổng số lượng bom).
Với thái độ điên cuồng lồng lộn, việc ném bom và pháo kích từ 300.000 tấn hồi năm 1965 tăng lên trên 1 triệu tấn vào năm 1966. Trên 2 triệu tấn trong mỗi năm từ 1967 đến 1970 (đỉnh cao là 2.966.548 tấn vào năm 1968), và gần bằng ngần ấy trong những năm 1971 và 1972.
Vào năm 1973, Mỹ và Nam - Việt Nam đã sử dụng trên 14 triệu tấn bom và đạn ở Đông Dương.
Người ta dự tính là ở Đông Dương có khoảng 26 triệu hố do bom gây ra, trong đó 21 triệu hố ở miền Nam - Việt Nam. Số bom này đã hất đi khoảng 3.000 triệu mét khối đất. Con số này lớn gấp 10 lần số đất đào lên của 2 công trình kênh đào Suez và Panama cộng lại, và chiếm một diện tích khoảng 13.000 km2 - khoảng 1/3 diện tích miền Nam - Việt Nam hoặc 1/25 diện tích toàn Việt Nam. Gấp 3 lần số lượng 2.057.244 tấn bom mà không quân Mỹ đã ném xuống châu Âu, Bắc Phi và Thái Bình Dương trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, hay nhiều hơn 2 lần số bom mà tất cả các nước tham chiến sử dụng trên tất cả các chiến trường trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai. Gần 12 lần số bom đã ném trong chiến tranh Triều Tiên là 635.000 tấn. Bằng sức nổ của trên 700 quả bom nguyên tử, loại đã thả ở Hiroshima và kể cả 400.000 tấn napan nữa.
Năm 1973, Giôn Yâng, một tù binh Mỹ, đã nhắc lại điều anh ta từng thấy: “Không thể thấy gì ngoài hố bom và mặt đất đã chết. Mặt đất giống cháo lúa mạch. Không có chim, không có cây, không có người. Không đồng ruộng, không vườn tược. Không có gì cử động. Đó là cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ”.
Theo Milton Leitenberg, khoảng 90.000 tấn chất độc hóa học của Mỹ đã rải xuống Việt Nam. Còn theo Allen Hassan trong tác phẩm “Không thể chuộc lỗi” của ông thì: “Chất da cam được sử dụng như một phương tiện của cuộc chiến tranh sinh hóa tại miền Nam - Việt Nam. Không có loại hóa chất nào gây hại đối với con người một cách nặng nề và dai dẳng hơn nó. Người Mỹ đã phun rải tổng cộng 25 triệu gallon (gần 80 triệu lít) gồm 15 loại hóa chất khai hoang - diệt cỏ khác nhau lên một diện tích gần 3,6 triệu mẫu Anh (tương đương 1,45 triệu hécta) rừng rẫy, làng mạc của Việt Nam, trong đó riêng chất da cam là 11,6 triệu gallon (gần 44 triệu lít)… Chất da cam làm rụng lá và giết chết cả các loại cây gỗ thuộc hàng thiết mộc, nó còn để lại những di chứng âm ỉ, bức bối, chết người trên binh lính của cả hai phía, và cả thường dân Việt Nam, trong đó có rất nhiều phụ nữ và trẻ con… Trẻ con sinh ra tiếp tục bị khiếm khuyết, dị dạng bẩm sinh và nhiều di chứng khác, trong đó có ung thư.
Chất da cam có chứa chất cực độc là dioxin, gọi tắt là TCDD. Dioxin là chất sinh ra từ quá trình sản xuất chất diệt cỏ và là loại hóa chất độc hại nhất mà con người từng biết đến (có nhà khoa học cho rằng chỉ cần 85 gam dioxin (lượng này chứa trong một thìa súp) là có thể giết toàn bộ dân số một thành phố khoảng 8 triệu người). Một nhà nghiên cứu người Úc ước tính rằng có khoảng 368 pound (tương đương 167 kg) dioxin đã bị rải xuống Việt Nam trong vòng 6 năm… Hiện còn một lượng lớn dioxin đang nằm trong đất và nước ở Việt Nam”.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Níchxơn tàn bạo, dã man hơn Giônxơn. Mặc dù chỉ có 3 năm nhưng số lượng thuốc nổ thời Níchxơn lớn hơn của 5 năm thời Giônxơn. Tính trung bình hàng tháng thì thời Giônxơn là 59.704 tấn, còn thời Níchxơn là 95.402 tấn (gấp 1,6 lần). Riêng cuộc ném bom “12 ngày đêm” ở Hà Nội, Hải Phòng là 40.000 tấn. Tờ “Bưu điện Oasinhtơn” tháng 4-1972 đã đăng dòng tít: “Một tấn bom trong 1 phút, suốt 3 năm”. Theo Roger Pic: “Mỗi phút cầm quyền, Níchxơn ném xuống hơn 1 tấn bom, ông ta trở thành người đầu tiên từ trên trời cao gây ra những tàn phá hơn bất kỳ một người nào khác trong lịch sử nhân loại…”.
Thế thì tại sao Đế quốc Mỹ thua dân tộc Việt để phải rước lấy nỗi hổ thẹn lớn lao như vậy?
Để trả lời được câu hỏi ấy, trước hết phải trả lời được câu hỏi: Vì sao cuộc chiến tranh ấy lại xảy ra?
Cho dù nhận thức triết học về tự nhiên - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa hoàn hảo, nhưng lý tưởng của nó về một xã hội công bằng, không có cảnh người bóc lột người là thực sự cao đẹp, phù hợp với ước mơ ngàn đời của nhân dân cần lao các dân tộc toàn thế giới. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên bang Xô viết đã có những thành công to lớn, đáng kể nhờ có sáng kiến “Chính sách kinh tế mới” (NEP) của Lênin thiên tài. Chính sách kinh tế ấy, cùng với quan niệm “Tư bản nhà nước”, dù biện hộ thế nào đi nữa thì bản chất của nó vẫn là: Kinh tế tập trung - bao cấp duy ý chí bắt buộc phải thỏa hiệp với kinh tế hàng hóa - thị trường tự do nhưng mù quáng.
Sự phát triển của nền kinh tế Liên Xô sau Cách mạng tháng Mười là tất yếu, nhờ có Chính sách kinh tế mới của Lênin và tinh thần lao động quên mình, sự nhiệt tình của Đại chúng cách mạng Nga đi xây dựng ước mơ - lý tưởng cộng sản, chứ không phải nhờ vào cái gọi là “tính ưu việt” của chế độ xã hội chủ nghĩa. (Chúng ta cho rằng chế độ tốt đẹp nhất mà loài người có thể có là chế độ không đặt nặng vấn đề sở hữu, có thể vừa công hữu vừa tư hữu sao cho phù hợp với từng giai đoạn, tùy thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh xã hội, có thể gọi tên, đặt nhãn mác cho chế độ đó là “xã hội chủ nghĩa” cũng được, nhưng nó phải là sự kế thừa của chế độ tư bản chủ nghĩa và bản chất của nó phải là hoàn toàn do dân và vì dân).
Giai đoạn cuối cùng của công cuộc xây dựng kinh tế Liên Xô sau cách mạng đã bộc lộ nhiều nhược điểm nhưng chưa đủ để nhận ra sai lầm về sự giáo điều trong phương thức điều hành kinh tế kiểu mới thì chiến tranh thế giới thứ hai đã nổ ra xóa nhòa tất cả. Cái hiện thực tốt đẹp do “duy ý chí” mà có ấy (và nếu không có chiến tranh thì cũng chỉ có thể tồn tại trong một giai đoạn hạn định như sau này đã thực sự xảy ra) đã là tấm gương sáng cho nhiều dân tộc bị đọa đày trên thế giới hướng về.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hàng loạt nước Đông Âu chịu sự ảnh hưởng của Liên Xô, ở Châu Á thì có Trung Quốc và Bắc - Triều Tiên đã đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Sự hình thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa mà khẩu hiện của nó là triệt tiêu tư bản tư nhân, xóa bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất, đã như một sự bành trướng của Cộng sản, làm cho các nước tư bản, đứng đầu là Mỹ vốn dĩ đã căm ghét, hoảng sợ càng thêm căm ghét, hoảng sợ. Chính điều này chứ không phải bất cứ điều gì khác đã làm cho chính giới Mỹ không ký vào bản Hiệp định Giơnevơ, dựng nên chính quyền bù nhìn ở miền Nam - Việt Nam, và từ đó mà gây ra cuộc chiến tranh hết sức tàn khốc ở Việt Nam. Tội ác của Đế quốc Mỹ đối với dân tộc Việt là không thể chối cãi.
Dân tộc Việt làm cách mạng chỉ với một mục đích duy nhất là giành độc lập, thống nhất nước nhà và xây dựng đất nước Việt Nam giàu có, hạnh phúc. Do đó nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam, trước tiên là phải đánh đuổi ngoại xâm. (Bản chất của mọi kẻ xâm lược là ngoan cố cho nên một dân tộc bị áp bức muốn tự giải thoát thì chỉ còn cách đứng lên đấu tranh không khoan nhượng với kẻ xâm lược và hầu hết các trường hợp là phải đấu tranh vũ trang). Trong tình hình thế giới lúc bấy giờ, muốn kiên quyết triệt để cách mạng, thì phải nhận thức đấu tranh theo quan niệm của chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã lùi xa và thực tế lịch sử đã cho thấy Cộng sản Việt Nam chẳng bành trướng đi đâu cả. Đông Dương chẳng chịu bất cứ tai họa nào của cộng sản cả. Hơn nữa Cộng sản Việt Nam đã làm một việc hết sức mã thượng là ân tình: cứu Cămpuchia thoát khỏi nạn diệt chủng “Khơme đỏ” Pôn Pốt - Yêngxary.
Có lẽ Shingo Shibata, giáo sư trường đại học tổng hợp Hosei (Tokyo - Nhật), đã nhận định đúng về nguồn gốc cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam khi ông viết trong “Những bài học của chiến tranh Việt Nam” như sau:
“Cuộc chiến tranh ở Việt Nam nổ ra đúng vào điểm sâu sắc của những mâu thuẫn nảy sinh ra từ sự xung đột trên qui mô toàn cầu giữa chủ nghĩa xã hội, các phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa đế quốc thế giới, xoay quanh chủ nghĩa đế quốc Mỹ.
Một mặt, bản chất chính trị và quân sự của cuộc chiến tranh ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, mang tính chất đế quốc, thực dân mới và mặt khác, nó là cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam giành độc lập chủ quyền, thống nhất đất nước”.
Dưới đây là những nhận định của chính giới Mỹ vào buổi đầu của cuộc chiến tranh Việt Nam
Năm 1953, Tổng thống Aixenhao (Eisenhower): “Để mất Việt Nam, mất Đông Dương thì sẽ khó có thể phòng thủ được bán đảo Malaixia. Bằng bất cứ giá nào đi nữa thì cũng phải chặn ngay nó (Cách mạng Việt Nam ) lại. Dù sao cũng còn có rẻ hơn cái giá phải trả sau này”
Tháng 1-1954, cũng Aixenhao: “Mất một nước nào đó ở Đông Nam Á thì cuối cùng sẽ dẫn đến việc mất cả Đông Nam Á rồi mất cả Ấn Độ, Nhật Bản và rút cuộc: làm nguy hại đến sự ổn định và nền an ninh của Châu Âu”.
Ngày 4-4-1954, Aixenhao viết thư cho Sơcxin (Churchill, thủ tướng Anh khi đó): “Nếu Đông Dương rơi vào tay Cộng sản thì hậu quả cuối cùng tác động đến thế chiến lược toàn cầu của chúng tôi và các ngài, dẫn đến sự thay đổi cán cân lực lượng trên toàn Châu Á và Thái Bình Dương. Điều đó có thể là rất tai hại và tôi biết rằng tôi và cả ngài đều không thể chấp nhận được”
Ngày 5-10-1961, tổng thống Mỹ lúc này là Kennedy nói: “Hiện có hai nơi bị chiến tranh đe dọa, đó là vùng Đông Nam Á và Béclin… Cuộc khủng hoảng ở Béclin làm cho người ta để ý đến nhiều hơn và hình như Cộng sản muốn làm như vậy. Vì là Cộng sản có thể làm các cường quốc phương Tây đặc biệt chú ý đến Béclin, thì Cộng sản có hy vọng thâu đoạt được thắng lợi ở Đông Nam Á. Phải liên kết mọi hiểm họa ở Đông nam Á với mọi hiểm họa ở Béclin. Vấn đề Cộng hòa Việt Nam đang trở nên trầm trọng thêm vì những sự đột nhập quá đáng của Cộng sản. Dân tộc Mỹ rất quan tâm đến cả hai vấn đề này”.
Ngày 17-7-1963, cũng Kennedy: “Nếu Mỹ rút khỏi cuộc xung đột ở Việt Nam thì sẽ xảy ra sự sụp đổ không những ở miền Nam Việt Nam mà cả ở toàn bộ vùng Đông Nam Á”.
Ngày 26-3-1964, Mắc Namara: “Vai trò của Mỹ ở Nam - Việt Nam là chứng minh trong cuộc thử thách này, thế giới tự do có thể đối phó được với cuộc chiến tranh giải phóng như chúng ta đã từng đối phó có kết quả với Cộng sản ở các mức độ khác”, và “Đông Nam Á có ý nghĩa chiến lược lớn trong cuộc phòng thủ tiền tiêu của Mỹ. Vị trí của nó nằm trên các con đường hàng không và đường biển mà một bên sườn là tiểu lục địa Ấn Độ và sườn bên kia là Úc, Tân Tây Lan và Philippin; khống chế lối vào Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương. Nếu vùng này rơi vào tay cộng sản thì sẽ đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng nhất cho nền an ninh của Mỹ và cho gia đình các quốc gia tự do, trong đó có chúng ta. Để bảo vệ Đông Nam Á, chúng ta phải đương đầu với cuộc thử thách ở Việt Nam”.
Với quan niệm và quyết tâm của Đế quốc Mỹ như vậy thì trước ý chí đấu tranh không khuất phục của dân tộc Việt trên con đường đi đòi lại quyền tự chủ và thống nhất tổ quốc của mình, chiến tranh là tất yếu. Đó là cuộc đối đầu quyết liệt đến một mất một còn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa một bên là cả một dân tộc tuy còn nghèo nàn lạc hậu nhưng khao khát giành lại chủ quyền lãnh thổ, thoát kiếp bị nô dịch, và bên kia là đội quân nhà nghề của nước đế quốc đầu sỏ, giàu có số 1, hùng mạnh thuộc hàng nhất nhì thế giới nhưng mang bản chất đánh thuê,  máy móc, thiếu động lực chiến đấu. Nói một cách khác, đó là cuộc đối đầu giữa sức mạnh có tính vô địch của kháng chiến toàn dân cứu nước và sức mạnh có tính hung bạo của đế quốc xâm lược. Cuộc chiến tranh Việt Nam trở nên vô cùng khốc liệt cũng là điều không thể tránh khỏi.
Tìm hiểu ra nguyên nhân làm xảy ra cuộc chiến tranh Việt Nam thì cũng phần nào thấy được nguyên nhân cơ bản làm cho Mỹ thua (cũng như trước đó đã làm cho Pháp thua): Đế quốc Mỹ thua vì nó đã tiến hành một cuộc chiến tranh phi nghĩa chống lại cuộc chiến tranh nhân dân chính nghĩa và bất khuất, sẵn sàng chết đến người cuối cùng.
Quân xâm lược Mỹ là đội quân chính qui, trang bị đến tận răng, đủ loại phương tiện chiến tranh, có áp đảo về vũ khí, bom đạn hỗ trợ, chi viện tối đa, có thể là đối thủ đáng gờm của bât cứ đội quân nào trong một cuộc chiến tranh phân rõ trận tuyến nhưng trở thành vụng về, bất lực trong thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam, một thế trận mà như Lão Tử nói là “dàn trận mà như không thành hàng, xua đuổi mà không đưa cánh tay ra, tuy có binh khí mà như không dùng binh khí, tuy có địch mà như không chạm trán với địch”. Trong thế trận ấy, quân Mỹ buộc phải khi hành quân càn quét thì tập trung cao độ và khi nghỉ ngơi, phòng ngự cũng phải co cụm cao độ, đã gặp khó khăn, mệt mỏi trong việc “tìm và diệt” mục tiêu, lại còn phải căng thẳng trong việc “quét và giữ” vì luôn trở thành mục tiêu cho đối phương tấn công bất cứ lúc nào. Một khi đội quân xâm lược ngày một tiêu hao và phương châm có tính quyết định đến thắng lợi của nó là đánh mạnh thắng nhanh bị phá sản thì đội quân ấy sẽ bị sa lầy, làm cho tính phi nghĩa của nó ngày càng bộc lộ, do đó mà nó cũng mất dần sự ủng hộ, bị phân hóa, đồng thời lực lượng kháng chiến cứu nước ngày một mạnh lên. Đế quốc Mỹ thua cuộc, phải rút khỏi chiến trường Việt Nam trước hết là do dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất, biết cách đánh giặc, sau đó là nhờ công lao cuộc đấu tranh, phản chiến của nhân dân Mỹ trong lòng nước Mỹ và có cả phần công lao của nhân dân tiến bộ toàn thế giới, trong đó có phần viện trợ vô cùng quí báu của Liên Xô và Trung Quốc cho cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của nhà báo Cu Ba là Walfredo Angulo, nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói rất xác đáng: “Khi bảo vệ lợi ích của nhân dân Pháp, Napôlêông là một nhà quân sự có tài, liên tiếp chiến thắng. Nhưng khi ông ta xâm lược Tây Ban Nha và Nga thì ông ta trở thành tướng chiến bại và kết thúc sự nghiệp ở Oatéclô. Cũng vậy, Mắc Namara, Oétmolen và các tướng lĩnh cao cấp khác của Mỹ đều là những người có bản lĩnh cao, những ông tướng học được nhiều kiến thức tại các học viện quân sự nhưng họ đã thất bại vì đã trở thành những công cụ phục vụ chủ nghĩa đế quốc. Đó là một thực tế của thời đại chúng ta… Nhưng cuối cùng, cái quyết định vẫn là con người. Họ tin vào sức mạnh của vũ khí và kỹ thuật, nhưng điều quyết định vẫn là bản chất và mục đích của cuộc chiến tranh”.
Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có lẽ giản dị là như thế thôi. Tuy nhiên nó vẫn mang tính thần kỳ bởi từ đó đến nay, nhiều người vẫn chưa hiểu nổi. Chính Kítxinhgiơ đã viết trong hồi ký của mình một cách băn khoăn: “Những nhà tâm lý học và xã hội học có lẽ ngày nào đó sẽ giải thích cho chúng ta phải suy nghĩ như thế nào đây về cái đất nước xa xôi và đơn điệu ấy, với những ngọn núi và những cánh đồng xanh rì, bên một biển xanh biếc, một đất nước hàng ngàn năm nay đã thu hút những người nước ngoài như một cái nam châm. Những người (nước ngoài) này đến đây để tìm kiếm vinh quang và đã vỡ mộng, đi vào để rồi trở ra với một thất vọng đắng cay. Có gì đã nhen lên trong dân tộc đó những ngọn lửa anh hùng và nghị lực như vậy, để làm cho số người đông như thế, từ các chân trời khác nhau đến để tìm đáp số cho điều bí ẩn và đã bị đẩy lùi với một sự kiên trì man rợ. Sự kiên trì man rợ đó không những đã xua đuổi những cố gắng của những người nước ngoài mà còn làm nguy hại cho cả sự ổn định bên trong của cả nước họ nữa”.
Còn Shingo Shibata, trong tác phẩm đã dẫn, thì viết:
“Lịch sử thế giới chưa từng bao giờ thấy có cuộc chiến tranh xâm lược nào lại bị nhân dân nhiều nước phản đối đến như thế và chưa từng thấy có cuộc chiến tranh nhân dân nào lại được nhân dân các nước đó đoàn kết ủng hộ đến như vậy”.
“Một trong những sự kiện kinh ngạc nhất của thời đại chúng ta là nhân dân Việt Nam, một nước bé nhỏ như vậy, đã có thể chiến đấu nhiều năm trời chống lại cuộc xâm lược của chủ nghĩa đế quốc lớn nhất và mạnh nhất trong lịch sử, đã chiến đấu cho đến thắng lợi trong cuộc chiến tranh hủy diệt lớn nhất và tệ hại nhất xưa nay chưa từng thấy.
Khi xét đến tổng số bom của các lực lượng Mỹ ném xuống tất cả các mặt trận trong đại chiến thế giới thứ hai là 2 triệu tấn và ném xuống đất Nhật Bản là 161.000 tấn so với 7.438 triệu tấn ném xuống Đông Dương, thì chính sự tồn tại của xã hội Việt Nam và sự tiếp tục sống sót của nhân dân Việt Nam phải được coi như một chuyện thần kỳ của thời đại chúng ta. Hơn thế nữa, thậm chí vượt qua cả điều đó, nhân dân Việt Nam và chính quyền của họ, mặc dù chịu đựng những hy sinh to lớn, vẫn duy trì được một ưu thế chính trị và tinh thần bất biến, uy tín của họ ngày càng tăng cả về quân sự lẫn ngoại giao. Họ luôn luôn giữ thế chủ động chống lại chủ nghĩa đế quốc Mỹ và chế độ bù nhìn ở Sài Gòn.
Vì vậy, chúng ta đặt câu hỏi tại sao nhân dân Việt Nam đã có thể làm ra được một chuyện thần kỳ như vậy, một chuyện vô song trong lịch sử? Cố nhiên, khoa học xã hội không thừa nhận những chuyện thần kỳ, vì hiện tượng xã hội cần phải được nghiên cứu và làm sáng tỏ trên quan điểm khoa học”.
“Để giải thích sức chiến đấu của nhân dân Việt Nam, nhiều người đã chỉ ra tinh thần kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, “tinh thần dân tộc” của Việt Nam và “chủ nghĩa dân tộc” của Việt Nam. Rõ ràng là trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Đế quốc Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt Nam đã biểu thị đầy đủ sức mạnh tinh thần ghê gớm của họ, tinh thần hy sinh, chịu đựng và sáng tạo của họ. Họ đã cho chúng ta một tấm gương sáng, vô song về sức mạnh tinh thần của con người, thể hiện đến mức tối đa những khả năng tiềm tàng mà chỉ có những khả năng đó mới có thể thực hiện được một kết quả kỳ diệu như vậy trong những hoàn cảnh khó khăn quá sức tưởng tượng, những thành tựu đó chắc chắn sẽ được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác như một bản anh hùng ca cần được ghi lại trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, câu hỏi của chúng ta là sức mạnh tinh thần đó đã được tạo nên và phát huy hết mức như thế nào?...
Nguyễn Khắc Viện, nhà sử học nổi tiếng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhấn mạnh ý nghĩa của thực tế là suốt mấy ngàn năm, nhân dân Việt Nam đã cần cù và kiên nhẫn xây dựng đê, kênh, rạch, hồ, ao và đắp đê chế ngự lũ lụt, hạn hán và bão, cày cấy ruộng đất của họ như thể bằng máu và mồ hôi của mình. Cuộc đấu tranh này, diễn ra hàng ngày qua bao nhiêu thế kỷ, đòi hỏi phải có tổ chức, và cũng trong suốt hai ngàn năm, người Việt Nam đã phải đánh lui nhiều cuộc xâm lăng của nước ngoài, mỗi lần đều phải huy động tất cả mọi nghị lực…”.
Cần phải nói thêm rằng góp công vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn có đội ngũ tình báo Cách mạng hoạt động hết sức tài giỏi và đạt hiệu quả cao trên mặt trận thầm lặng, trong lòng địch. Một trong những nhà tình báo tiêu biểu cho tài năng và đức độ của Việt Nam là Phạm Xuân Ẩn. Ông hoạt động trong “vỏ bọc” là một nhà báo làm việc cho tạp chí “Time” của Mỹ tại Sài Gòn suốt cuộc chiến tranh mà không bị lộ. Những báo cáo tình báo của Phạm Xuân Ẩn chính xác đến mức Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng nhận xét rằng “dường như chúng ta có mặt ngay trong phòng tác chiến của Mỹ”. Chiến công của Phạm Xuân Ẩn là rất nhiều, trong đó có những chiến công thực sự lớn lao và hết sức quan trọng. Larry Berman, nhà sử học người Mỹ, tác giả cuốn “Điệp viên hoàn hảo”; cho rằng Phạm Xuân Ẩn là một trong 20 nhà tình báo xuất sắc nhất thế kỷ XX.
Chúng ta không nói nhiều đến những chiến công của thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn mà chỉ trích một đoạn rất ngắn trong cuốn “Điệp viên hoàn hảo”:
“Phạm Xuân Ẩn được thưởng huân chương chiến công vì đã có bản báo cáo về Phước Long đề ngày 30-11-1974. Các sách lịch sử Việt Nam so sánh những đóng góp của Phạm Xuân Ẩn trong giai đoạn này ngang với báo cáo nổi tiếng của trùm tình báo Liên Xô, Rishớc Soócgiơ (Richard Sorge), trong đó Soócgiơ khẳng định rằng “Nhật Bản sẽ không mở mặt trận phía Đông”. Nhờ báo cáo này của Rishớc Soócgiơ mà Liên Xô đã yên tâm chuyển các lực lượng quân sự của mình sang phía tây để chặn đứng cuộc tiến quân của quân đội Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Phạm Xuân Ẩn cũng lấy được bản báo cáo bí mật “Nghiên cứu chiến lược”, trong đó nói rằng Quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trong tình trạng cả tinh thần lẫn vật chất đều thấp và rằng máy bay B52 của Mỹ sẽ không trở lại. Tác giả của bản báo cáo mật này chính là tướng Nguyễn Xuân Triển, Giám đốc Viện nghiên cứu chiến lược quân đội (Việt Nam Cộng hòa), đã xác định Buôn Mê Thuột là điểm mong manh, dễ chọc thủng nhất trong hệ thống phòng thủ của Việt Nam Cộng hòa”.
Chúng ta muốn nhấn mạnh đến mặt đức độ của Phạm Xuân Ẩn. Ông Ẩn là người đã nhìn thấy rõ được bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam, phân biệt đúng đắn bạn thù, cư xử mã thượng, khoan dung hoàn toàn phù hợp với Đức Huyền Diệu và truyền thống nhân hậu của dân tộc Việt. Chúng ta sẽ kể vài tình tiết về khía cạnh này, rút ra cũng từ cuốn “Điệp viên hoàn hảo”:
Khi Berman đề cập đến vấn đề tiếp tục hoạt động tình báo ở trên đất Mỹ (vì Phạm Xuân Ẩn sau chiến tranh vẫn chưa bị lộ), ông Ẩn coi đó là một ý nghĩ ngông cuồng: “Tôi thực sự không hiểu mọi người muốn tôi làm gì ở đó. Có lẽ họ chờ đợi rằng các nguồn tin của tôi sẽ cập nhật cho tôi về việc Lầu Năm Góc đang nghĩ thế nào, nhưng điều đó là không thể… Hay là tôi có thể báo cáo về tổ chức của phòng tin thời sự ở Los Angeles hoặc ở San Frangcisco”. Nói xong, ông Ẩn nở nụ cười đầy ẩn ý.
Vài thập kỷ sau chiến tranh, Dan Southerland nhớ lại: “Phạm Xuân Ẩn vội vàng chở Trần Kim Tuyến (trùm mật vụ thời Diệm - Nhu) đến địa chỉ đã dặn trước - đến sự tự do. Tôi có thể nói chắc chắn rằng, vào cái ngày cuối cùng ấy của cuộc chiến tranh, Phạm Xuân Ẩn đã giúp cứu mạng sống của một người từng ra sức chống lại những mục tiêu mà ông Ẩn đang bí mật theo đuổi và phụng sự trong suốt cuộc đời mình. Tôi sẽ luôn nhớ tới ông Phạm Xuân Ẩn về điều đó”. Sau này Trần Kim Tuyến có viết thư cho ông Ẩn bày tỏ sự biết ơn. Ông Ẩn đã nói với Henry Kamm: “Ông ấy cảm ơn tôi và nói với tôi là ông ấy đã hiểu. Tôi đã viết thư trả lời Trần Kim Tuyến rằng tôi không muốn nhìn thấy cảnh các con của ông ấy mồ côi, và tôi cũng đã biết vợ ông Trần Kim Tuyến trong một thời gian dài. Tôi cũng biết Trần Kim Tuyến yêu vợ ông ấy nhiều đến mức nào và cả hai người đều yêu nhau. Ông ấy là một người bạn và chúng tôi đều là người Việt Nam, ông Trần Kim Tuyến đã giúp nhiều cho cả hai bên”.
Nhà báo Bob Shaplan có ghi chép về ngày gặp mặt cuối cùng của ông với Phạm Xuân Ẩn: “Ẩn (nói): quần chúng nhân dân đang cần hòa bình hơn bao giờ hết, chứ họ không muốn tăng cường chính quyền Sài Gòn. Quần chúng không muốn chiến tranh, chỉ muốn hòa hợp dân tộc”. Bản thân Phạm Xuân Ẩn cũng luôn mơ ước về một nước Việt Nam thống nhất, hòa hợp dân tộc.
Vào khoảng một, hai năm đầu của thập niên 1980, Phạm Xuân Ẩn đã nói với Sheehan: “Sau khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, mọi thứ hồ sơ đều bị đốt hết, từ sách y học đến các tài liệu của chính quyền - giờ thì đã có sự hối tiếc rồi, nhưng quá muộn - nhiều thứ từ Nga giờ đây trở nên không còn phù hợp. Tôi rất tiếc về những điều xảy ra, nhưng tôi không thể ngăn cản được, có lẽ tôi đã ở với phía bên này quá lâu rồi nên tôi biết giá trị của những tài liệu đó. Có những hành động hăng hái một cách thái quá, giống như những con ngựa chiến bị che mắt vậy; nếu anh khuyên họ đừng làm, có lẽ họ lại nghĩ anh là phản cách mạng và đây là một tội lớn. Tôi được sinh ra ở Việt Nam, tôi là người Việt nam, nhưng tôi học được sự văn minh ở nước Mỹ. Đây là điều rắc rối của tôi”.
Có lần Phạm Xuân Ẩn nói: “Đảng dạy tôi những điều về hệ tư tưởng. Từ người Mỹ, tôi học được những điều quan trọng khác về nghề báo và phương pháp tư duy. Đó là điều tôi muốn con mình cũng học được như vậy. Tôi muốn con trai tôi có những người bạn là người Mỹ”. Lần khác, ông Ẩn nói: “Suốt cuộc đời mình, tôi chỉ có hai trách nhiệm. Một là nghĩa vụ của tôi đối với Tổ Quốc. Hai là trách nhiệm của tôi đối với những người bạn Mỹ - những người đã dạy tôi mọi điều từ A đến Z, đặc biệt là nhân dân Mỹ. Mong ước của tôi là: đấu tranh cho đến khi đất nước giành được độc lập và sau đó, lập quan hệ ngoại giao và bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, được như vậy thì tôi có thể mỉm cười mà nhắm mắt xuôi tay bất cứ lúc nào cũng thỏa lòng rồi”. Phạm Xuân Ẩn cũng tin tưởng rằng những người bạn đồng nghiệp Mỹ của ông sẽ hiểu ông: “Họ biết rằng tôi là người luôn luôn giúp đỡ họ và rằng tôi không phải là kẻ thù của họ. Tôi đã đấu tranh cho đất nước tôi, chứ không phải chống lại người Mỹ”.
Vào năm 1989, Morley Safer sang Việt Nam. Ông này cùng trợ lý của mình cùng Phạm Xuân Ẩn ngồi trò chuyện trên tinh thần bạn bè và ba người đã uống hết một chai Uytxki Bạch Mã (White Horse). Trong cuộc trò chuyện đó, Safer có hỏi tại sao cuộc cách mạng (trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội) lại chưa thành công. Ông Ẩn nói: “Có rất nhiều lý do. Nhiều sai lầm đã mắc phải chẳng qua chỉ vì sự dốt nát. Giống như mọi cuộc cách mạng, chúng tôi gọi đó là cuộc cách mạng của nhân dân, nhưng tất nhiên nhân dân là người đầu tiên phải hứng chịu hậu quả… Chừng nào còn những người nằm ngủ trên đường phố, thì chừng đó còn thất bại. Không phải những nhà lãnh đạo là những người độc ác, nhưng tác động hiệu quả của chủ nghĩa gia trưởng và lý thuyết kinh tế đã bị mất niềm tin là như nhau”. Một trong những câu hỏi cuối cùng của Safer là ông Ẩn có cảm thấy hối tiếc điều gì không. Phạm Xuân Ẩn nói: “Tôi ghét câu hỏi đó. Tôi đã tự hỏi mình với câu hỏi đó cả ngàn lần. Nhưng câu trả lời còn làm cho tôi ghét hơn. Không! Tôi không có gì phải hối tiếc. Tôi phải làm điều ấy. Tôi yêu nước Mỹ nhưng Mỹ chẳng có quyền gì ở đây. Người Mỹ đã phải ra đi khỏi Việt Nam bằng cách này hay cách khác…”
Phạm Xuân Ẩn qua đời vì bệnh phổi vào ngày 20-9-2006.
Dưới đây là một số những đánh giá về Phạm Xuân Ẩn từ những người từng tiếp xúc, những bạn bè, đồng nghiệp từng cộng tác với ông.
Bruce Palling: “Phạm Xuân Ẩn xứng đáng được coi là một trong những điệp viên vĩ đại nhất của thế kỷ XX”
Stanley Cloud: “Trong thời gian chiến tranh, một đồng nghiệp của chúng tôi đã nói: “Tôi nghĩ, Phạm Xuân Ẩn là một ví dụ hoàn hảo về một xã hội Việt Nam tốt đẹp nhất”. khi đó, tôi cũng đã nghĩ như vậy, và bây giờ tôi vẫn còn nghĩ như vậy”.
Jolynne D`Ornano: “Đặt gia đình sang một bên, ông có hai lòng trung thành - một là đối với đất nước ông, và hai là đối với tình yêu nước Mỹ và những người Mỹ mà ông đã kết bạn. Tôi không nhận thấy bất kỳ sự xung đột nào trong những việc ông đã làm. Ông có thể yêu một đất nước khác vì những điều mà đất nước đó đại diện, nhưng ông vẫn chống lại những chính sách của nước đó, đặc biệt là khi những chính sách ấy đang tàn phá đất nước của ông và dân tộc ông. Theo bản chất của mình, ông không thể chỉ ngồi yên, chẳng làm gì cả và cứ để cho những sự kiện cứ thế diễn ra tự nhiên. Vai trò mà ông đóng trong việc làm nên lịch sử không chỉ cần niềm tin mãnh liệt, mà cần cả sự can đảm ghê gớm, và tôi khâm phục ông đã làm được điều đó”.
Douglas Pike: “Phạm Xuân Ẩn rất sùng bái Nho giáo - riêng về điều này là tôi dám chắc. Ông ấy là người sống rất đạo đức, do vậy ông luôn tự soi mình và hành động trên cơ sở các giá trị của của Nho giáo. Một trong những giá trị này liên quan đến tình bạn. Nho giáo nhấn mạnh sự thủy chung trong tình bạn và ngăn cấm việc khai thác, lợi dụng một người bạn”.
Larry Berman: “Bà Germaine Lộc Swanson nói với tôi rằng: “Phạm Xuân Ẩn là một người yêu nước. Ông ấy trở thành người Cộng sản chẳng qua chỉ là nghĩa vụ”. Thế nhưng, cho dù là những nhà bình luận đã viết gì, Phạm Xuân Ẩn vẫn không lên án sự tham nhũng đã trở nên tràn lan ở Việt nam hoặc lên án chế độ một cách chung chung. Mỗi khi được hỏi, ông chỉ nói lên sự thật, giống cách diễu cợt về “những nhà tư sản đỏ” hoặc “những người cộng sản xanh”. Phạm Xuân Ẩn nói với tôi và với những người khác rằng: “Tôi không đấu tranh để có được những thứ ấy”. Chưa bao giờ Phạm Xuân Ẩn chỉ trích chính phủ. Ông chỉ nói những suy nghĩ của mình về một tầm nhìn khác đối với tương lai”.
Wendy Larsen: “Tôi nghĩ rằng nếu ở trong tình huống đó, có lẽ tôi chỉ thể hiện được một phần trăm sự can đảm mà Phạm Xuân Ẩn đã làm cho đất nước của ông”.
Jul Owings: “Tôi không hề ngạc nhiên khi thấy Phạm Xuân Ẩn trung thành trước hết với Tổ quốc của ông ấy. Chẳng lẽ người Mỹ chúng ta không làm như vậy sao?”
Raymond F. Burghardt (Đại sứ Mỹ tại việt Nam): “Câu chuyện và cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn thật không thể nào tin được, nhưng vượt trên tất cả những điều đó, Phạm Xuân Ẩn là một biểu tượng quan trọng của tình hữu nghị mới giữa hai nước chúng ta. Và con trai của Phạm Xuân Ẩn cũng là một người xuất sắc như thế.”
Một bài đăng trên báo “Thanh niên” viết rằng Phạm Xuân Ẩn “đã làm được những điều mà rất ít nhà tình báo khác có thể làm được. Thật dễ hiểu vì sao ông được tổ chức lựa chọn. Nhưng chúng ta sẽ còn phải mất nhiều thời gian để đánh giá một cách chính xác về con người và những điều ông để lại”.
Phạm Xuân Ẩn đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng 11 huân chương các loại và được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Cuối cùng, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ ngót 30 năm của dân tộc Việt chống hai thế lực xâm lăng hùng mạnh, lần lượt là thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ, nói theo Xalăng (Raul Salan), viên tướng Pháp ở Việt Nam lâu nhất và hiểu Việt Nam nhiều nhất, đã từng là Tổng tư lệnh các lực lượng viễn chinh Pháp toàn Đông Dương kiêm Cao ủy Pháp ở miền Bắc Việt Nam, trong cuốn “Đông Dương đỏ” của mình thì “bí quyết của sức kháng chiến phi thường của nhân dân Việt Nam, phải được tìm kiếm trong tổ chức lao động hợp tác của họ, đã phát triển trong quá trình 4.000 năm đấu tranh với thiên nhiên và truyền thống chiến tranh nhân dân được thể hiện trong những cuộc kháng chiến của họ chống xâm lăng trước đây. Trên cơ sở những nhân tố đó, phải có một lãnh tụ tài giỏi, một tập thể lãnh đạo kiên cường, quả cảm, tiến hành một cuộc cách mạng triệt để, liên tục biết phá vỡ những tổ chức chính quyền và hệ tư tưởng cũ, tổ chức chính quyền mới, đề xướng một hệ tư tưởng mới có khả năng huy động được mọi lực lượng”.
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã lùi sâu vào dĩ vãng nhưng những bài học mà nó để lại cho thế giới từ cả hai phía vẫn còn nóng bỏng tính thời sự. Có rất nhiều học giả từ trước đến nay đề cập đến vấn đề này. Jean Christophe Oberg, đã từng là đại sứ Thụy Điển ở Hà Nội, có bài viết chúng ta cho là rất hay. Chúng ta sẽ trích vài đoạn từ đó:
“… Cuộc kháng chiến khốc liệt của dân tộc Việt Nam chống lại một siêu cường quốc giàu có nhất, mạnh nhất thế giới phải được khắc sâu như một bài học không thể quên được đối với tất cả các siêu cường quốc và các nước khác hằng mơ ước đạt tới (siêu cường). Nước Việt Nam, mặc dầu lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật, đã chứng minh được rằng một dân tộc nhỏ bé có thể huy động lực lượng và toàn bộ phương tiện cần thiết để không thể bị quật ngã khi nền độc lập của nó bị đe dọa”.
“Đây là bài học có tầm quan trọng hàng đầu đối với tất cả những ai, với những lý do khác nhau, chỉ có thể trông cậy vào chính bản thân mình, để thực sự bảo vệ được nền độc lập và thống nhất dân tộc mình…”.
“Cuộc chiến tranh của Việt Nam đã đóng góp tích cực vào việc tạo ra một trật tự mới có tính chất bình đẳng hơn giữa các nước lớn, nhỏ và trung bình. Ngày nay, những ai muốn và đòi củng cố nền hòa bình thế giới theo những nguyên lý, những học thuyết của họ, những kẻ đó sẽ phạm sai lầm lớn khi ứng dụng những định lý có tính chất ảo tưởng của họ mà không muốn nhớ lại vực thẳm Việt Nam”.
“Bây giờ có thể chúng ta đã có đầy đủ lý do, mặc dù đã không biết được điều này sớm hơn, suy nghĩ trong chốc lát, để bày tỏ lời ca ngợi hàng triệu người Việt Nam vô danh, với vô vàn đau thương và hy sinh của họ, với giá của máu họ, đã đóng góp để tạo ra một trật tự mới của thế giới, mà trong đó Đông và Tây, Bắc hay Nam sẽ nhận thấy sự cần thiết tương trợ lẫn nhau chung sống hòa bình”.
Trong tác phẩm “Không thể chuộc lỗi” của Allen Hassan, bác sĩ dân sự người Mỹ, từng có mặt tại Nam - Việt Nam năm 1968 làm công việc chữa trị nhân đạo, chúng ta đọc được những đoạn này:
“Nước Mỹ nhớ rất kỹ những gì người khác gây cho họ nhưng lại quên rất nhanh những gì họ đã gây ra cho những người khác. Người chết không thể sống dậy, người tàn tật mãi mãi tàn tật, và nỗi đau mãi mãi là nỗi đau…”.
“Ở Việt Nam, chúng ta tiến hành một cuộc chiến tranh để ngăn chặn Cộng sản, nhưng chiến tranh đã không ngăn chặn được Cộng sản. Chúng ta gây thiệt hại to lớn cho nhân dân Việt Nam và cho chúng ta. Tại Việt Nam, quân đội chúng ta chú trọng đến việc đếm xác chết, nhưng trong những cuộc chiến tranh sau này như ở Irắc, thì lãnh đạo quân sự của chúng ta không còn bận tâm đến việc đếm xem có bao nhiêu thi thể thường dân tử vong nữa. Pascal nói: “Con người không bao giờ làm điều ác một cách hoàn toàn và vui vẻ như khi họ làm điều đó vì một đức tin tôn giáo”. Đã đến lúc phải quan tâm tới khái niệm về nghiệp chướng của người châu Á, theo đó, những điều chúng ta đã gây ra cho thế giới này một lúc nào đó sẽ trở lại với chúng ta…”.
“… Sự hiểu biết sẽ cải hóa và làm con người trở nên nhân bản. Lẽ phải làm cho chúng ta hòa nhã, nhưng thành kiến thì tận diệt mọi khuynh hướng hòa diu và dẫn đến chiến tranh. Nếu như chúng ta không thay đổi cách xử sự và trở lại là một đất nước hòa bình, hào phóng, sâu sắc và chu đáo, thì chúng ta sẽ tiếp tục đặt cược số phận của mình vào một ván bài, để rồi tự hủy hoại chính mình, hủy hoại cả hành tinh với vũ khí hạt nhân, vũ khí giết người hàng loạt, nước và thực phẩm bị nhiễm độc bởi chiến tranh sinh hóa.
Chúng ta chưa chuộc lỗi với những thiệt hại mà bom đạn và hóa chất của chúng ta đã gây ra tại Việt Nam. Tôi hy vọng rằng một ngày nào đó, chúng ta có thể giúp đất nước tươi đẹp này tẩy xóa hết hóa chất độc hại, những bom mìn chưa nổ, và rồi tạ lỗi cùng nhân dân Việt Nam về tất cả những gì chúng ta đã gây nên. Tôi hy vọng là chúng ta sẽ không quá kiêu hãnh và ngạo mạn để có thể thốt lên: “Chúng tôi chân thành xin lỗi!”, bằng tiếng Việt”.
“Theo truyền thống, người Mỹ tán thành và có thiện chí đối với các cuộc chiến tranh giành tự do hoặc các cuộc chiến tranh nhằm thiết lập một thể chế dân chủ. Chúng ta là nền dân chủ đầu tiên của Tân Thế Giới. Sức mạnh và ảnh hưởng của chúng ta lớn hơn bao giờ hết. Nhưng những hành vi quá khích đi cùng sự gây hấn và chinh phục sẽ làm người ta nhận ra sự hung bạo, làm cho người ta chán ghét, ghê tởm bởi những vụ thảm sát thường dân dưới danh nghĩa Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Những lời dối trá về sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã đưa những công dân chúng ta đến chiến trường Việt Nam, và những lời cáo giác dối trá về vũ khí giết người hàng loạt đã đưa chúng ta đến với chiến trường Irắc. Không còn nghi ngờ gì nữa, thái độ ngạo mạn của Hoa Kỳ đối với các nước thuộc thế giới thứ ba đang đưa chúng ta vào một vòng tròn vô tận của các cuộc chiến tranh không bao giờ dứt…”.
“Chủ nghĩa khủng bố sẽ dần tiêu tan trên trái đất nếu như các cường quốc, những nước giàu mạnh đối xử với các nước thứ ba và nguyên thủ của họ bằng sự tôn trọng thực sự, và cùng nhau làm việc để đạt được mục tiêu chung. Tôn trọng đức tin của mỗi một dân tộc cũng như lịch sử của họ… Sự cao quí của người Mỹ không phải là sự cao quí của một đức vua hay của một tư lệnh hạm đội, mà là sự cao quí dân chủ rộng mở với bản tính tự nhiên, làm cho hầu hết công dân chúng ta đặc biệt thích làm điều tốt lành”.
“…, nhà khoa học Pháp vĩ đại Louis Pasteur đã nói trong một bài diễn văn ngày 27-12-1892: “Tôi có niềm tin chắc chắn rằng khoa học và hòa bình sẽ chiến thắng sự dốt nát và chiến tranh, rằng các quốc gia sẽ liên kết, không phải để hủy diệt mà là để xây dựng, và rằng tương lai sẽ thuộc về những ai cống hiến hết mình cho nhân loại”.
“… Cuốn sách này là nỗ lực cuối cùng ghi lại chính xác các sự kiện đối với những hành động tàn nhẫn mà tôi đã mục kích ở Việt Nam. Sách cũng bày tỏ những hy vọng của tôi về xứ sở mà tôi sinh ra, vốn vẫn tiềm tàng khả năng là một đất nước vĩ đại thực sự. Thật là chán nản khi thấy những hành vi tàn ác, vô nhân đạo vẫn tiếp tục mang danh nghĩa tổ quốc tôi, mang danh nghĩa đất nước mà tôi mến yêu, nơi tôi ra đời, một đất nước đã cho tôi quá nhiều… Nếu như chúng ta có thể hình dung ra một tương lai nhân bản hơn và nỗ lực để nó trở thành hiện thực thì đó chính là niềm hy vọng cho hòa bình trên thế giới”.
“… Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ long trọng tuyên bố: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Quyền được sống là quyền trước tiên, Quyền được sống bị tước đoạt một cách phi pháp thì nói đến hàng trăm, hàng ngàn quyền khác của con người là điều vô nghĩa, là đạo đức giả…”.

                                                                  ***
Về phụng sự “dưới trướng” một lãnh tụ thiên tài, kiệt xuất thường là những cá nhân có năng lực nổi trội, có biệt tài xuất chúng. Hồ Chí Minh đã có được một tập thể những con người ưu tú như vậy, chẳng hạn là: Trần Phú, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà… Một lãnh tụ thiên tài và một tập thể lãnh đạo tài giỏi, hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng là một trong những nguyên nhân quyết định cho sự thành công vang dội trong cuộc kháng chiến cứu nước ngót 30 năm của Cách mạng Việt Nam. Trong niềm vui và tự hào khôn xiết của cả Dân tộc là niềm vui và tự hào khôn xiết của cả tập thể ấy vì đối với họ, đúng như câu thơ Trần Văn Trà đã viết:
                           “Ra đi hai bàn tay trắng
                           Khi về một dải giang sơn”
Tuy nhiên hai câu thơ đó làm cho chúng ta ngậm ngùi nhớ về nhiều con người hữu danh cũng như vô danh đã gục ngã, đã khuất trên dọc đường trường chinh ấy, nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông thực sự đã “ra đi hai bàn tay trắng” để giành lại giang sơn cho dân tộc Việt, nhưng ông đã không có mặt trong ngày Toàn Thắng.
Ngay từ năm 1960, Hồ Chí Minh đã tiên đoán rằng chậm nhất là 15 năm nữa, miền Nam sẽ được giải phóng, Nam - Bắc sẽ xum họp một nhà và thường trực trong ông một mong ước tột cùng là đến ngày đó ông sẽ vào thăm hỏi đồng bào Miền Nam. Mong ước đó đã không bao giờ thành hiện thực: Hồ Chí Minh từ trần vào ngày 2-9-1969 (đúng vào ngày Quốc Khánh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa - cuộc đời của những thiên tài thường hay có những điểm kỳ lạ mà chỉ có thể giải thích được bằng con đường tâm linh).
Hồ Chí Minh chưa bao giờ kể về đời mình, chắc rằng không phải ông “làm cao” mà có lẽ ông định sau khi thống nhất nước nhà, thực sự mãn nguyệt rồi, lúc đó ông sẽ kể? Hay là vì điều này: Hồ Chí Minh là một vĩ nhân và những bậc vĩ nhân thường phải hội đủ hai mặt: danh tiếng “nổi như cồn” đồng thời cuộc đời có nhiều uẩn khúc? Và phải chăng địa linh nhân kiệt hun đúc nên vĩ nhân, anh hùng và đồng thời cũng bày ra sự trái ngược ấy để vĩ nhân, anh hùng đi vào lịch sử, bất tử ở đó với những câu chuyện truyền kỳ đượm sắc thái lung linh, huyền thoại liên quan đến thân thế, sự nghiệp họ?
Trong chính sử, điều rõ ràng là ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An có phó bảng Nguyễn Sinh Sắc lấy vợ là Nguyễn Thị Loan, sinh được ba người con: Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Sinh Cung. Cả ba người con ấy sau này đều không lấy vợ (hay chồng) nên cũng không có con. Lịch sử không nói đến thân phụ của Nguyễn Sinh Sắc là ai và cũng không cho biết Nguyễn Sinh Sắc là con một. Lịch sử về thân thế dòng họ Nguyễn Sinh, cơ bản chỉ có vậy. Người ta có cảm giác một dòng họ đột ngột được sinh ra từ trời đất, duy trì được 2 đời rồi tuyệt nhiên trở về trời đất, mất hút. Thật kỳ lạ!
Ngưỡng mộ và kính phục Hồ Chí Minh, trong một thời gian dài, chúng ta đã cố gắng tìm hiểu nguồn gốc, dòng họ của Nguyễn Sinh Cung (tên lúc còn nhỏ của Hồ Chí Minh), từ Nguyễn Sinh Sắc - thân phụ ông, trở về trước và không thu được một manh mối thực sự đáng tin nào. Đành rằng ở Nam Đàn, Nghệ An cũng có một dòng họ Nguyễn Sinh, và cũng có thông tin kiểu “rỉ tai, truyền khẩu” rằng Nguyễn Sinh Sắc là con em ruột thịt của dòng họ này. Nhưng vì thông tin đó tỏ ra manh mún, mờ nhạt và hơn nữa ẩn chứa nhiều mâu thuẫn nên rất khó lòng mà tin được. Thời Nguyễn Sinh Sắc so với ngay thời nay vẫn là một quá khứ “rất gần”, so với thời Hồ Chí Minh còn sống, còn gần hơn nữa. Sao trong thực tế lịch sử thấy mối quan hệ giữa cha con Nguyễn Sinh Sắc với dòng họ Nguyễn Sinh có vẻ hời hợt, thiếu mật thiết? Chưa từng nghe Hồ Chí Minh có chú, bác ruột. Điều đó phải chăng vì Nguyễn Sinh Sắc là con trai một? Nếu thế sao không thấy Nguyễn Sinh Sắc lập bàn thờ, ít ra là thờ cha mẹ mình theo truyền thống dân tộc Việt. Tại sao lúc về già, Nguyễn Sinh Sắc giã từ con cái (ông Khiêm, bà Thanh), rời bỏ quê hương bản quán, hành phương Nam, đến Cao Lãnh - Đồng Tháp xa xôi hành nghề bốc thuốc và hoạt động yêu nước rồi mất tại đó?
Dứt khoát thông tin “rỉ tai, truyền khẩu” nói trên chưa xuất hiện khi ông Khiêm, bà Thanh và Hồ Chí Minh còn sống, vì không ai trong số họ, như mọi người dân Việt khác lại vô cớ chối bỏ dòng họ, ông bà mình. Nếu lúc đó đã có thông tin đó thì nó phải là sự thực, có tính công khai và phải có rất nhiều người biết, còn không, chỉ là một sự vu khống. Mà ai lúc đó dám mở miệng vu khống? Có thể nghĩ rằng đó là một thông tin thất thiệt, mãi về sau mới được tung ra và đơn giản là chỉ vì một ước muốn háo danh thầm kín nào đó chăng?
Như vậy, nếu suy luận của chúng ta có lý thì họ Nguyễn Sinh của Nguyễn Sinh Sắc và dòng họ Nguyễn Sinh ở Nam Đàn - Nghệ An chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, còn không, nó phải hàm chứa một uẩn khúc nào đó. Để giải tỏa cái uẩn khúc đó thì trước tiên phải trả lời được câu hỏi: Nguyễn Sinh Sắc thực sự là ai, tại sao lại mang họ Nguyễn Sinh? Theo một bài viết (theo tác giả, "Đây là những lời truyền miệng nhân gian, cho nên cùng lắm, chúng chỉ có thể coi là những giai thoại mà, nếu không khó tính lắm, ta cũng có thể gọi là những giai thoại lịch sử.") của giáo sư Trần Quốc Vượng, là một trong những nhà khảo cổ học và nghiên cứu sử Việt Nam hàng đầu: 
"Nhưng đây không phải là chuyện cu. Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cu. Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cu. Hồ, cu. Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của ho. Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng ho. Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".
Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".
Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng.
Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.
Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày nay) trở thành con trai út.
Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng.
Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.
Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan (1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa.
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này...
Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa (mystified).
Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ.
Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh Nghệ An - cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội".
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê..."
Thế rồi, như một sự tình cờ dễ chịu, mới đây, chúng ta có trong tay một cuốn sách cũ có tựa đề: “Anh hùng Võ Duy Dương chống Pháp ở Đồng Tháp Mười” do nhà nghiên cứu Thượng Hồng chủ biên (NXB Thanh niên, 2005), và hơn nữa, đọc được bài “Địa linh tam giác hợp, nhân kiệt nhị tộc giao” của Nguyễn Thế Kỷ trong tạp chí “Thế giới mới” số 818, năm 2009. Đọc hai bản văn đó, trong lòng chúng ta trỗi dậy một niềm vui khôn tả. Thì ra trong dân gian miền Trung và Nam Việt Nam, từ lâu đã lưu truyền câu chuyện về thân thế, gốc gác dòng họ của phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (cũng là của Chủ tịch Hồ Chí Minh) và câu chuyện đó rất giàu sự thực. Chưa cần nói đến nội dung, chỉ cần nhìn thấy chân dung truyền thần của Võ Duy Dương thôi, thì ngay lập tức chúng ta đã mường tượng đến khuôn mặt của thanh niên Nguyễn Ái Quốc được chụp trong dịp hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Pháp; khuôn mặt của Lyn ở Mátxcơva, khuôn mặt của Tống Văn Sơ ở Trung Quốc và khuôn mặt Hồ Chí Minh cùng bộ râu của ông trong ngày Tuyên ngôn Độc Lập tại Hà Nội. Giống nhau “ghê gớm”, chỉ có khác là mắt Hồ Chí Minh cực sáng như có tia sáng phát ra từ bên trong và sâu thẳm nỗi niềm.
Theo Nguyễn Thế Kỷ thì Vũ Kỳ, người từng là thư ký của Hồ Chí Minh, lúc còn sống đã nói với ông rằng: Hồ Chí Minh thường nhắc nhiều đến Quảng Ngãi; khi bàn đến việc kết nghĩa giữa hai tỉnh với nhau, nhiều người hỏi tại sao Nghệ An phải kết nghĩa với Quảng Ngãi chứ không phải tỉnh nào khác, Hồ Chí Minh chỉ cười, và Vũ Kỳ còn nói: “Chuyện Bác (tức Hồ Chí Minh) nói về Quảng Ngãi, về Nghĩa Hành thì dài lắm, sâu nặng lắm, đợi đến khi nước nhà thống nhất, Bắc Nam xum họp, Bác mới nói được và sẽ về thăm làng Đại An, Quảng Ngãi và về Đồng Tháp Mười viếng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Thiên Hộ Dương…”
Tại Đồng Tháp, nơi Võ Duy Dương tụ nghĩa chống Pháp, từ lâu trong dân gian đã xôn xao lời đồn “Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là con ông Thiên Hộ Dương”.
Trong bài viết của mình, Nguyễn Thế Kỷ còn kể rằng thạc sĩ Võ Kim Chi và Võ Duy Ngô có đưa cho ông xem bản phả đồ phả hệ sơ lược của dòng họ Võ thì thấy:
Võ Duy Ninh - Tổng trấn Gia Định có hai con là Võ Duy Lập và Võ Duy Ngọc. Võ Duy Ninh và Hoàng Diệu là hai bạn thân cùng xuất phát từ Hưng Yên. Khi thành Gia Định thất thủ và Võ Duy Ninh tuẫn tiết thì Võ Duy Lập lập tức đứng ra chiêu mộ hàng ngàn người lập ấp, cùng Trương Định, Thủ khoa Huân tiếp tục chống Pháp. Nhờ chiêu mộ được hàng ngàn hộ dân nên ông được triều đình Huế phong chức Thiên Hộ Vương. Người Nam bộ nói Vương thành Dương nên tên Lập dần bị quên đi. Từ đó người ta gọi ông là Võ Duy Dương, Thiên Hộ Dương. Sau khi thất thủ ở căn cứ Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương vượt thoát vòng vây, cải trang đánh lừa mật thám Pháp, ra được Phan Thiết - Bình Thuận, rồi từ đó lần về quê ở Đại An - Hành Thuận - Nghĩa Hành… Sau lên chợ chùa mai danh ẩn tích. Võ Duy Dương có 5 người con là Võ Cường, Võ Kỳ, Võ Sắc, Võ Thị Thắm, Võ Thị Lan. Khi Võ Sắc lên 4 tuổi thì được cha Võ Duy Dương tìm cách đưa ra Nghệ An gửi gắm ông Hoàng Đường. Hoàng Đường là người có quan hệ ruột thịt với Tổng Trấn Hoàng Diệu, cũng từ Hưng Yên vào dạy học ở Nghệ An. Để tránh mọi hệ lụy trước sự dò la của mật thám Pháp, Hoàng Đường đã cố gắng cho Võ Sắc có cha mới và người này có họ là Nguyễn Sinh. Từ đó Võ Sắc trở thành Nguyễn Sinh Sắc. Sau này, Hoàng Đường đã gả con gái đầu là Hoàng thị Loan cho Nguyễn Sinh Sắc. Sự tác hợp này chính là cái duyên “Nhân kiệt nhị tộc giao”, sinh ra Nguyễn Sinh Cung để rồi Nguyễn Sinh Cung hóa thân thành một đại anh hùng của dân tộc Việt, thành danh nhân của thế giới với cái tên Hồ Chí Minh bất hủ.
Nhưng tại sao lại là Hồ Chí Minh? Cái tên đó được chọn tình cờ hay có ẩn ý? Chúng ta tin rằng một con người ôm ấp nhiều nỗi niềm và tư duy một cách sâu sắc như thế không bao giờ làm những điều tình cờ.
Trên bước đường bôn ba hoạt động cách mạng của mình, trước khi mang tên họ “chung cuộc” là Hồ Chí Minh, Nguyễn Sinh Cung đã thay tên đổi họ nhiều lần, chủ yếu là do yêu cầu phải giấu tung tích, nhưng một phần có lẽ cũng là do ý thích. Vì vậy có thể cho rằng mỗi cái tên được chọn, đều ẩn chứa một ý nghĩa nào đó. Thật là khập khiễng, nhưng đến đây một sự liên tưởng bật ra trong bộ não đầy ngập hoang tưởng của chúng ta: Thiên Hộ Dương cũng nhiều lần thay tên đổi họ: Võ Duy Lập, Võ Quá, Võ Duy Dương và chắc chắn còn có vài tên họ khác nữa mà người đời chưa phát hiện ra. Đặc biệt trong thành phố Hồ Chí Minh, có một con đường mang tên Nguyễn Duy Dương. Nguyễn Duy Dương là ai, có phải cũng là Võ Duy Dương không? Nếu người đặt tên Nguyễn Duy Dương cho con đường, thực sự cho rằng đó là tên họ của Thiên Hộ Vương và không bị ai thắc mắc hay phản bác thì tất phải có một lý do xác đáng nào đó và cũng có thể có một giai đoạn nào đó người ta không gọi Thiên Hộ Vương là Võ Duy Dương mà là Nguyễn Duy Dương - thay họ Võ bằng họ Nguyễn?
Sự thật lịch sử là có những người con của dòng họ Võ Duy đã từ Quảng Ngãi vào định cư ở Gia Định từ thời Thiệu Trị và Tự Đức. Năm 1842 (Thiệu Trị năm thứ 2), trong số 16 người đỗ cử nhân ở cuộc thi hương tại Gia Định có Võ Duy Quang (ngụ ở huyện Bình Dương). Năm 1848 (Tự Đức năm thứ nhất), thi hương tại Gia Định có 20 người đỗ cử nhân, trong đó có Võ Duy Hiền (ngụ huyện Bình Dương). Năm 1852 (Tự Đức năm thứ 5), trong số 13 người đỗ cử nhân tại kỳ thi hương ở Gia Định có Võ Duy Hương (ngụ huyện Bình Dương). Thời ấy huyện Bình Dương thuộc Gia Định thành. Võ Duy Hương là con ruột của Võ Duy Thành, mà Võ Duy Thành chính là anh ruột của Võ Duy Ninh (Thành và Ninh lúc bấy giờ đều là quan của triều đình Huế).
Tuy nhiên, điều rất lạ là trong suốt quãng thời gian đó và cho đến tận ngày Võ Duy Ninh tuẫn tiết, không thấy bất cứ một trang sách báo còn lưu lại nào, không có bất cứ một dòng sử liệu nào nhắc đến cái tên Võ Duy Dương cũng như mối quan hệ giữa Võ Duy Ninh và Võ Duy Dương, mặc dù Võ Duy Dương đã xuất hiện ở Nam Bộ, muộn nhất cũng vào năm 1857. Phải chăng lúc đó Võ Duy Lập đã đổi tên họ thành Nguyễn Duy Dương và chỉ sau khi triều đình phong cho chức Thiên Hộ Vương thì người ta mới biết gốc tích họ Võ Duy của ông mà từ đó gọi là Võ Duy Dương?
Chúng ta không có dịp được tận mắt xem gia phả họ Võ Duy nên xin đặt thêm câu hỏi: Vậy thân phụ Võ Duy Ninh là ai? Trong phả đồ, phả hệ sơ lược của dòng họ Võ Duy chỉ thấy bắt đầu từ Võ Duy Ninh và điều đáng chú ý hơn cả là, đúng thật, Võ Duy Lập còn có tên là Nguyễn Duy Dương.
Tại sao Võ Duy Lập lại “thích” họ Nguyễn Duy? Có lẽ nào dòng họ Võ Duy là từ dòng họ Nguyễn Duy, hay nói cho đúng hơn nữa là từ họ Nguyễn cải sang và từ ai đó mà Võ Duy Lập đã biết được điều (có thể là tuyệt mật) đó? Chúng ta đoán sự cải họ là tuyệt mật vì sống dưới triều Nguyễn, chẳng có động cơ nào để phải làm như thế. Chúng ta biết rằng khi triều Tây Sơn bị đánh đổ, dưới sự truy sát trả thù khốc liệt của Nguyễn Ánh, nhiều người có liên quan mật thiết với triều Tây Sơn đã phải cải họ, đổi tên, mai danh ẩn tích để sống còn (như trường hợp “Sinh Đào tử Đinh” mà chúng ta đã kể). Vậy, nếu dòng họ Võ Duy thực tế được cải sang từ họ Nguyễn và phải giữ kín như một điều tuyệt mật liên quan đến sống còn thì dòng họ này phải có quan hệ rất mật thiết với triều Tây Sơn, thậm chí là có mối thân tộc với dòng họ của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.
Bây giờ, chúng ta sẽ tập trung cao độ vào sự suy tưởng để “đoán mò” những ẩn ý sau những danh xưng Nguyễn Sinh Cung đã chọn cho mình mà chúng ta biết. Rõ ràng, cái tên Nguyễn Sinh Cung nếu có một ẩn ý nào đó thì chỉ có thể là ẩn ý của vợ chồng Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Trong hồi ký “Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác” của Lê Thiết Hùng, một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, có kể là theo lời ông Nguyễn Sinh Khiêm (anh ruột Nguyễn Sinh Cung, quen gọi là Cả Khiêm) thì một bận, ông Giải San (Phan Bội Châu) muốn đưa Nguyễn Sinh Cung sang Nhật cùng với một số thanh niên khác. Trước mặt ông Đặng Thái Thân vừa thay mặt Hội, vừa như bậc cha chú, Nguyễn Sinh Cung trân trọng nói đại ý: Cháu rất quí trọng tấm lòng yêu nước thương nòi của các bác, nhưng con đường đi của các bác thì cháu không thể theo được, cháu sẽ tìm con đường đi khác.
Chuyện đó cho thấy ngay từ thời niên thiếu, Nguyễn Sinh Cung đã cảm nhận được sự bế tắc của cuộc giải phóng dân tộc do các nhà cách mạng tiền bối tiến hành. Do đó, Nguyễn Sinh Cung đã nung nấu đi tìm một con đường cứu nước khác, đúng đắn nhất, muốn thế, trước hết phải xuất bôn, tự mình quan sát, tìm hiểu trực tiếp thế giới. Để tỏ rõ sự quyết chí của mình, ngay từ những bước đi đầu tiên tới Phan Thiết trong cuộc hành trình vạn dặm và dài lâu, Nguyễn Sinh Cung đã đổi tên thành Nguyễn Tất Thành. Tất Thành là phải thành công, chắc chắn thành công! Vào đến Sài Gòn, khi bước chân xuống một tàu buôn Pháp nhận vai phụ bếp, chính thức rời Tổ quốc đi vòng quanh thế giới, Nguyễn Tất Thành lại đổi tên thành Nguyễn Văn Ba. Cái tên này giản dị và thông thường quá, khó mà có một ẩn ý nào. Nhưng chúng ta, vốn là những kẻ “cứng đầu cứng cổ”, vẫn cố “nghĩ ngợi” một phen.
Tại sao lại là Ba? Ngoài người anh ruột là Cả Khiêm, Tất Thành còn có người chị ruột là bà Nguyễn Thị Thanh - Hai Thanh. Vậy có thể gọi Tất Thành là Ba Thành. Ba có nghĩa là người anh em thứ ba chăng? Có thể suy diễn Ba là bôn ba, nhưng suy diễn đến thế thì e quá lố mất rồi! Trong cuộc sống thường ngày, người dân Nam Bộ thường dùng cách xưng hô theo thứ rất giản dị mà cũng thân mật như: Anh Hai (người Bắc gọi là anh Cả), Chị Ba, Ông Tư… Đặt tên là Ba chắc chỉ hàm ý như vậy thôi. Thế còn tại sao lại đổi từ Sinh thành Văn? Khi lớn lên không lẽ Nguyễn Sinh Cung không một lần thắc mắc về dòng họ nội của mình? Chắc rằng, như sau này chúng ta thấy, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã biết rất rõ quê hương bản quán bên nội của mình là ở Quảng Ngãi, có thể cả bên ngoại là ở Cao Lãnh - Đồng Tháp hoặc Bình Dương - Gia Định. Tuy nhiên có lẽ ông không biết tung tích mẹ và người cha Nguyễn Duy Dương của mình, hoặc tin rằng cha mình đã mất. Hơn nữa, có thể Nguyễn Sinh Sắc cũng biết mối quan hệ rất gần gũi, mật thiết của dòng họ nội với ba anh em nhà Tây Sơn (mà chúng ta đã giả định). Những thông tin này chẳng lẽ Nguyễn Sinh Cung không biết? Sách “Tây Sơn lương tướng ngoại truyện” của tiến sĩ Nguyễn Trọng Trì (1854-1922), viết về lai lịch, tư chất, sự nghiệp công huân, phẩm hàm của 14 vị võ tướng Tây Sơn, trong đó có 8 vị quê ở Nghĩa - Bình (Quảng Ngãi - Bình Định) là:
Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết
Đô đốc Đặng Văn Long
Đô đốc Nguyễn Văn Lộc
Tướng quân Lê Văn Hưng
Tướng quân Lê Văn Trung
Tướng quân Phạm Cầu Chính
Tướng quân Võ Đình Tú
Tướng quân Đặng Xuân Phong
Chưa kể nữ đô đốc Bùi Thị Xuân và có thể còn thêm vài người nữa…
Phải chăng Võ Duy Lập, một con người khí phách, đã cải họ trở lại từ Võ thành Nguyễn và Nguyễn Tất Thành, một con người đang quyết chí, đã cải họ lót từ Sinh thành Văn vì nguyên nhân (mà chúng ta đã giả định) này?
Khi hoạt động trên đất Pháp, Nguyễn Tất Thành đổi tên thành Nguyễn Ái Quốc. Ái Quốc chính là sự bày tỏ nỗi niềm nhớ thương, tình yêu nồng nàn đối với Tổ Quốc của một con người ra đi tìm đường cứu nước biền biệt mà vẫn mịt mù sương khói.
Năm 1920, tiếp xúc được với “Những luận cương” của Lênin đăng trên báo “Nhân đạo” ở Pari, Nguyễn Ái Quốc đã thốt lên: “…Đây là con đường giải phóng chúng ta!”, và: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật sang nước Nga-Xôviết. Tại đây ông lấy bí danh là Lyn. Ẩn ý của bí danh này, theo chúng ta, là sự ngưỡng mộ Cách mạng Tháng Mười, khâm phục Lênin và tự nhận là học trò của Lênin.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu, mang một cái tên mới: Lý Thụy. Ẩn ý của Lý Thụy là gì? Thật là vô cùng khó suy đoán! Thụy hàm nghĩa gì? Sự nông cạn trong kiến thức văn chương đã bắt buộc chúng ta, dù cứng đầu cứng cổ đến mấy cũng đành bất lực trước chữ Thụy này. (Có lẽ mai mốt có dịp, phải đi hỏi ông An Chi mới xong!). Thế còn họ Lý? Chúng ta biết rằng Nguyễn Ái Quốc là một người hết mực yêu nước thương nòi, đã tìm hiểu đến am tường lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, đồng thời cũng rất tự hào về dân tộc Việt của mình. Thời xa xưa, dân tộc Việt có ba vị anh hùng tạo được 3 mốc son không thể phai mờ trong lòng con cháu hôm nay và mai sau, đó là:
- Lý Bí: Lý Bí là người đã phất cờ khởi nghĩa, kháng chiến đánh tan ách đô hộ và sự xâm lược của nhà Lương (Trung Quốc), giành lại độc lập thực sự cho đất nước sau thời Văn Lang, Âu Lạc và đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, “có ý mong xã tắc được bền vững muôn đời” (Đại Việt sử ký). Ông là người Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng đế (Nam Đế). Ông cũng bãi bỏ lịch Trung Hoa, đặt niên hiệu riêng là Thiên Đức, đúc tiền riêng… tỏ rõ ý thức tự chủ dân tộc, công khai phủ nhận quyền bá chủ thiên hạ của triều đại phong kiến phương Bắc.
- Lý Công Uẩn: Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Công lao lớn nhất của ông đối với dân tộc Việt là dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, trở lại với nơi đắc thế, địa linh nhân kiệt để hình thành nên một kinh đô Thăng Long mà ngày nay là Hà Nội ngàn năm văn vật, với bản hùng văn “Chiếu dời đô” vang vọng non sông.
- Lý Thường Kiệt: là vị tướng lừng danh của triều đại nhà Lý, người trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống cuộc xâm lăng lần thứ hai của nhà Tống - Trung Quốc (Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi lần thứ nhất do Lê Hoàn thực hiện) và giành thắng lợi với hai chiến công hiển hách: đại phá thành Ung Châu, đại phá quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt. Cũng chính tại phòng tuyến này, bài thơ “Nam quốc sơn hà…” bất hủ của Lý Thường Kiệt đã vang lên dõng dạc và đanh thép. Bài thơ đó cũng chính là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Đại Việt - Việt Nam.
Phải chăng Nguyễn Ái Quốc chọn họ Lý là vì thế?
Năm 1933, Lý Thụy lại đổi thành Tống Văn Sơ. Sơ có thể là sơ khởi, sơ khai, thuở ban sơ, sơ kỳ… Còn chữ Tống, nếu suy diễn kiểu như trên thì phải nghĩ ngay đến nhà Tống bên Trung Quốc. Nếu tạm bỏ chữ Văn đi thì chúng ta có Tống Sơ. Nếu Tống Sơ ám chỉ về thời kỳ đầu của nhà Tống thì chỉ có thể là thời Bắc Tống (960-1127). Nhưng tại sao Lý Thụy, một người Việt Nam yêu nước chân chính lại chọn cái tên nhắc đến một triều đại Trung Quốc đã đem quân xâm lược nước ta đến 2 lần, và suy diễn như vậy có phải là quá hồ đồ không?
Mùa xuân năm 1940, Nguyễn Ái Quốc từ nước Nga Xôviết về tới Côn Minh, lấy bí danh là Hồ Quang (nhà báo). “Quang” phải chăng là quang đãng, sáng sủa? Tháng 7-1942, Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi Quốc Tế Cộng Sản, bản báo cáo gồm 17 trang có ký tên người dịch là Lý Tuấn. “Tuấn” ở đây có thể gợi nhớ đến Trần Quốc Tuấn và “Lý Tuấn” có thể hiểu là “Lý - Trần”, hai thời đại kế tiếp nhau cực kỳ hào hùng trong công cuộc chống ngoại xâm của dân tộc Việt?
Sau đó, cũng trong năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đổi tên lần cuối cùng thành Hồ Chí Minh. Trải qua một cuộc hành trình dài đăng đẳng, bôn ba khắp chốn, vượt qua bao gian nguy, vượt qua những năm tháng đau buồn bởi sự nghi kỵ trong nội bộ của phong trào Quốc Tế Vô Sản, đến đây, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ được con đường tất yếu phải đi để cứu dân cứu nước, thấy rõ được thời cơ đang đến, thấy rõ được tương lai sáng lạn của công cuộc giải phóng dân tộc mà mình suốt đời theo đuổi đã ở rất gần. Chính vì vậy mà Ái Quốc đã chuyển thành Chí Minh. Chí Minh là hoàn toàn minh bạch (về chí khí), hoàn toàn sáng tỏ (về nhận thức) và hoàn toàn sáng lạn (về công cuộc cách mạng). (Có một sự kiện đáng lưu ý: Hầu Chí Minh, thiếu tướng Quốc Dân Đảng là người trực tiếp thả Hồ Chí Minh ra khỏi tù theo lệnh Tưởng Giới Thạch vào năm 1943, tuy nhiên Nguyễn Ái Quốc đã mang tên Hồ Chí Minh vào tháng 8-1942, tức là trước khi bị bắt. Nếu cho rằng ông đã mượn tên như một sự hàm ơn thì phải đổi lại thời điểm đặt tên đã ghi trong lịch sử).
Còn họ Hồ thì mang ý nghĩa gì đây? Chúng ta nhớ lại rằng trước khi băng hà, vua Quang Trung đã căn dặn Trần Quang Diệu phải khẩn trương dời đô từ Phú Xuân ra Nghệ An. Có thể Nghệ An là khu vực mà dưới nhãn quan quân sự của Quang Trung, có địa thế công - thủ về mặt chiến lược ưu việt hơn Phú Xuân. Có thể là vì cả điều này: lòng dân Nghệ An luôn sắt son hướng về triều đại Quang Trung - Tây Sơn. Trước đây, mỗi lần ra Bắc, vào Nam, Quang Trung - Nguyễn Huệ đều dừng chân ở đất Nghệ An, nhất là trước khi ra Thăng Long đại phá quân Thanh, ông đã dừng chân ở Nghệ An để tuyển thêm một lực lượng quân sĩ đáng kể và được nhân dân, các bô lão trong vùng nhiệt thành ủng hộ. Và vì cả điều này nữa: Nghệ An là đất tổ của dòng họ Hồ tại Việt Nam mà họ Hồ lại là họ gốc của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Vậy, nếu phỏng đoán rằng dòng họ Võ Duy có liên quan một cách “thân bằng quyến thuộc” với dòng họ ba anh em nhà Tây Sơn là đúng, thì cũng phải cho rằng việc chọn họ Hồ của Nguyễn Ái Quốc là hành động lấy lại họ gốc của mình.
Chúng ta đoán rằng ẩn ý của cái tên Hồ Chí Minh là như vậy.
Đến đây, dựa vào những tư liệu lịch sử có được cùng với những suy diễn võ đoán của mình, chúng ta đã thấy tạm đủ để tạo dựng nên truyền thuyết lịch sử, huyền thoại về một cuộc tích tụ nên một nhân vật tinh hoa của hồn thiêng dân tộc Việt từ khí thiêng sông núi nước Việt. Trước hết, đã là truyền thuyết, huyền thoại thì phải có hư có thực, có nét huyền ảo, do đó mà cũng có đúng có sai. Duy có một điều hoàn toàn tin cậy được là chúng ta làm việc này với cái tâm chân thực, trong sáng nhất và coi đó như là một nhiệm vụ thiêng liêng trong cuộc hành trình tìm kiếm những viên ngọc của lịch sử tồn tại thế giới loài người.
Trên đất nước Trung Hoa trong giai đoạn cuối thời kỳ “Ngũ đại, Thập quốc”, đầu thời Bắc Tống, tồn tại tình trạng chia cắt, cát cứ trầm trọng, chiến tranh thôn tính lẫn nhau xảy ra triền miên. Ở những nơi có chiến tranh, thây người chết đầy đường, ruộng đồng bỏ hoang, cảnh vật tiêu điều, có khi cả ngàn dặm cũng không thấy bóng người. Đời sống nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ vô cùng khốn khổ, nhiều người, nhiều gia đình đã phải rời bỏ quê hương bản quán đi xa, chạy trốn chiến tranh, lang thang đây đó tìm nơi nương náu, tìm chốn dung thân.
Vào khoảng thời gian từ năm 960-980 có một bầu đoàn thê tử họ Hồ từ vùng Triết Giang - Trung Quốc ra khơi, dong buồm lánh nạn xuống phương Nam và đã cập vào bờ biển Nghệ An. Người Việt ở xứ Nghệ vốn mang bản tính nhân hậu, bao dung từ ngàn xưa thời các vua Hùng của dân tộc Việt, đã sẵn lòng dung nạp, cưu mang đoàn người. Đoàn người Trung Quốc ấy chính là gốc gác họ Hồ bên cạnh nhiều dòng họ khác của dân tộc Việt, chung sống hòa thuận trên đất nước Việt. Dần dần, giọt máu họ Hồ tan hòa vào dòng máu người Việt, lan tỏa ra Thanh Hóa, cả những nơi khác nữa và con em họ Hồ sau này đã trở thành con em của dân tộc Việt, đấu tranh cho quyền lợi dân tộc Việt. Nhiều người trong số họ đã có công lao đối với dân tộc Việt.
Vào thời Việt Nam xảy ra nạn Trịnh - Nguyễn phân tranh, có một vài người họ Hồ ở Nghệ An do bị bắt làm tù binh hoặc đơn thuần là mưu sinh đã xuất hiện tại xứ Quảng Nam - Đàng Trong khai khẩn đất hoang, định cư, lạc nghiệp.
Những người họ Hồ ấy đã phải cải sang họ khác để dễ bề làm ăn, sinh sống. Chủ yếu là cải sang họ Nguyễn và trong số này có cụ tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn, đồng thời cũng có (hoặc cũng là) cụ tổ của một võ tướng họ Nguyễn của phong trào Tây Sơn, người mà sau này trở thành cái gốc xuất phát của dòng họ Võ Duy. Vị tướng này phải trạc tuổi anh em nhà Tây Sơn để có con trạc tuổi con đầu Nguyễn Huệ là Nguyễn Quang Toản (vua Cảnh Thịnh) hoặc có thể lớn hơn một chút để cho ra đời Võ Duy Ninh vào năm 1804 và trước đó là Võ Duy Thành. (Năm 1792, khi Quang Trung mất, Quang Toản mới 10 tuổi!).
Như vậy vị võ tướng nói trên chính là ông nội của anh em nhà Võ Duy. Khi triều Cảnh Thịnh bị tiêu diệt, thân phụ của anh em Võ Duy Thành, Võ Duy Ninh đã phải mai danh ẩn tích, cải họ thành Võ Duy (không biết miếu hiệu của Quang Trung là Thái Tổ Vũ Hoàng Đế có liên quan gì đến việc cải họ thành Võ Duy này không? Vì Vũ, nói trại đi để kiêng húy thành Võ).
Võ Duy Ninh sinh năm 1804 tại làng Đại An, xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, tổ quán của Võ Duy Ninh là ở Bình Định. Nghe đâu cụ tổ năm đời của Võ Duy Ninh là Võ Hữu Man. (Có thể là Hồ Hữu Man cải thành Nguyễn Hữu Man, rồi sau này, khi triều Tây Sơn sụp đổ, trong cuộc lùng sục đàn áp trả thù những người theo Tây Sơn của Nguyễn Ánh, con cháu đã sửa lại thành họ Võ. Rất tiếc dòng họ Võ này có gia phả nhưng đã bị thiêu hủy vào năm 1972). Hữu Man là người Đàng Ngoài vào khai khẩn lập nghiệp tại Cù Lâm Nam (thôn Nam Tượng, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định; hiện nay Nam Tượng chỉ là một thôn nhỏ với mươi nóc nhà, sau lưng là núi Thơm, trước mặt là núi Hòn Giang, bên trái là núi An Tượng, bên phải là sông Côn, cách làng Kiên Mỹ (quê hương Nguyễn Huệ) 12 km, xa xa về phía trước mặt là núi chàng Lía). Có thể cha của Võ Duy Ninh đã ra Quảng Ngãi lánh nạn rồi lấy vợ và sống ẩn dật ở đó, hoặc cũng là sự thường tình xưa nay, trên con đường binh nghiệp của mình, ông đã có vợ bé ở làng Đại An? Năm 30 tuổi (năm Giáp Ngọ - 1834, Minh Mạng thứ 15), ông đỗ cử nhân tại Huế, là một trong 11 vị khoa bảng đầu tiên của đất Quảng Ngãi. Ngay sau khi đỗ cử nhân, Võ Duy Ninh được triều đình Huế giao cho nhiều trọng trách: Hành tẩu Bộ Lại (năm 1834), Bố chánh Hưng Yên (năm 1847), Hữu Tham tri Bộ Lại (năm 1852), Phó Chủ khảo trường thi hương Thanh Hóa (năm 1850), Quan duyệt quyển khoa thi Hội năm Bính Thìn (năm 1856). Tháng 7-1858 (tức năm Mậu Ngọ - Tự Đức thứ 11), trước tình hình Thực dân Pháp lăm le đánh Đà Nẵng và các tỉnh Nam Kỳ, triều đình Huế đã điều động Võ Duy Ninh vào giữ chức Hộ đốc thành Gia Định, sau thăng lên chức Tổng trấn Định Biên. Ông là một vị quan bản lĩnh, hiểu biết về quân sự và có đức độ nên được quân sĩ dưới quyền nể phục, dân chúng địa phương tôn kính.
Thực dân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng vào ngày 31-8-1858, với âm mưu thực hiện đánh nhanh thắng nhanh hòng “giáng cho Huế một đòn quyết định”. Nhưng âm mưu đó bất thành trước sự phản ứng quyết liệt và có hiệu quả của quân dân Đà Nẵng - Quảng Nam, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương , Tổng đốc quân thứ Quảng Nam. Tướng Pháp là Đô đốc Giơnuy phải thay đổi kế hoạch, quyết định kéo quân xuống phía nam đánh chiếm Gia Định.
Ngày 10-2-1859, tàu chiến Pháp bắn đại bác vào Vũng Tàu. Trong vòng 6 ngày (từ ngày 10-2 đến 15-2), quân Pháp tiến từ Cần Giờ đến Nhà Bè (sát thành Gia Định), triệt phá được 12 đồn trong hành tiến.
Ngày 17-2-1859, quân Pháp tấn công thành Gia Định, dùng chất nổ phá tường thành, đánh thủng Cửa Đông. Pháo thần công của quân triều đình bắn xuống tàu chiến và bộ binh Pháp nhưng không hiệu quả. Quân Pháp xông được vào thành, hai bên cận chiến, xáp lá cà. Quân triều đình không chống cự nổi, đến trưa đành phải rút đi, bỏ lại nhiều xác chết, hầu hết súng đạn, thóc gạo và hơn 100 chiến thuyền gỗ trên sông Thị Nghè. Đô đốc Trần Trí, Bố chánh Vũ Trực, Lãnh binh Tôn Thất Năng lui quân về ụ Tây Thái, án sát Lê Tứ tự vẫn, còn Tổng trấn Võ Duy Ninh thì dẫn một cánh quân rút về làng Phước Lý, huyện Phước Lộc, Biên Hòa. Quân Pháp kéo tới bao vây, dụ hàng. Trong cảnh binh hao, lực tận và bản thân đã bị thương, Tổng đốc Võ Duy Ninh biết rằng chống cự nữa là điều không thể, chỉ gây thêm những cái chết vô ích cho quân lính triều đình đã thiếu hẳn vũ khí tự vệ. Để tỏ lòng trung quân ái quốc, khí phách không khiếp sợ của mình, ông đã chọn con đường tuẫn tiết chứ không chịu rơi vào tay giặc, trở thành tấm gương bất khuất, sáng ngời cho con em đời sau. Những người tâm phúc đã âm thầm chôn cất và giấu kín tung tích mộ phần của Tổng trấn Võ Duy Ninh để về sau thân nhân đưa hài cốt ông về táng ở quê nhà. Nhân dân Gia Định - Biên Hòa và toàn cõi Nam Kỳ vô cùng chua xót và kính phục Võ Duy Ninh khi biết ông tuẫn tiết.
Võ Duy Ninh có vợ là người huyện An Nhơn - Bình Định. Họ sinh được 2 người con trai, người con đầu tên Ngọc, người thứ hai tên Lập.
Võ Duy Lập được sinh ra tại Hành Thuận, Nghĩa Hành, Quảng Ngãi vào năm 1827. Là hậu duệ của một võ tướng, ông thích võ hơn văn, tuy học văn rất giỏi nhưng không ứng thí vì không thích chốn quan trường. Ông học võ từ rất sớm và ngay từ thuở nhỏ đã được tặng biệt danh Ngũ Linh Dương nhờ một lúc cử được 5 trái linh trong một kỳ thi võ. Ở tuổi thanh niên, dáng vóc ông to lớn, mạnh mẽ và rất giỏi võ nghệ. Ông cũng thường giao du với những thanh niên có lòng yêu nước cùng lứa và cả lớp đàn anh như: Trương Định, Trương Gia Mô, Nguyễn Thông, Âu Dương Lân, thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa…
Trong khoảng những năm từ 1840 đến 1845, có lần Võ Duy Lập đã theo cha mình là Võ Duy Ninh vào Gia Định như một chuyến được ngao du và với mục đích là thăm thú bà con họ hàng đang sống và làm ăn ở đó (vì trước đó đã có một bộ phận dòng họ Võ Duy từ Quảng Ngãi vào định cư tại huyện Bình Dương - Gia Định). Trong thời gian thăm thú Gia Định, Võ Duy Lập gặp một người con gái (có thể là do mai mối) tên là Trương Gia Hương, thuộc dòng dõi thế gia rất nổi tiếng ở Gia Định, Bến Tre và Bình Thuận. Nàng là em họ của cử nhân Trương Gia Hội, là cô họ của Trương Gia Mô, nhà cách mạng đồng thời với Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và cũng là người sau này dẫn lối cho Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn.
Sau chuyến đi này, Võ Duy Lập về quê, lấy Trương Gia Hương làm vợ, vợ ông sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Võ Duy Cung. Năm 1858, bà sinh người con thứ hai, đặt tên là Võ Duy Phụng.
Năm 1857, hưởng ứng chính sách khai hoang, chiêu dân lập ấp của triều đình Huế (mà người trực tiếp phát động phong trào là Nguyễn Tri Phương), Võ Duy Lập cùng bạn bè và những người có tâm huyết xuôi thuyền vượt biển vào Nam, đến đất Ba Giồng, Tiền Giang ven Đồng Tháp Mười, khai khẩn. Vì là cuộc đi khai khẩn vùng đất mới có thể gặp rừng thiêng nước độc nên Võ Duy Lập đã để vợ con ở lại quê nhà (lúc này vợ ông đã cấn thai người con thứ hai), và có thể vì lý do không muốn ai biết mình là con của vị quan lớn Võ Duy Ninh nên ông cũng đổi họ thành Nguyễn Duy Dương (thậm chí là Nguyễn Văn Dương, trở về họ gốc).
Khi được biết Võ Duy Ninh đã vào Gia Định nhận chức Hộ đốc, Lập đến ra mắt cha mình. Người cha biết được cuộc khẩn hoang, lập ấp của con ở đất Ba Giồng, nhưng không biết được Lập đã đổi họ tên. Chính lần gặp gỡ này đã cho Nguyễn Duy Dương biết cha mình được phái vào Nam mộ quân ở các tỉnh Long - Tường - An – Hà (Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên), tăng cường phòng thủ cho Gia Định thành. Từ đây, ngoài việc vận động dân ở các địa phương, nhất là dân các tỉnh miền Trung tụ về làm hình thành nên khu vực định cư mới ở đất Ba Giồng, Nguyễn Duy Dương còn phải nhanh chóng chiêu mộ lập nên một đội nghĩa binh, tích cực rèn chí, luyện gan theo lời cha dặn.
Ngày Pháp đánh Gia Định thành, Nguyễn Duy Dương kéo số dân binh ít ỏi của mình đến trợ chiến quân triều đình. Sau khi thành Gia Định thất thủ, ông cùng số dân binh đó trở về lại Ba Giồng, xây dựng Lý Nhơn thành căn cứ địa, quyết tâm chống Pháp. Nghe tin cha tuẫn tiết, ông đã bí mật lặn lội đến Phước Lý chịu tang, đồng thời bí mật vận động được một số binh lính triều đình ở đó theo về cùng ông tiếp tục chiến đấu.
Cũng trong khoảng thời gian này, Quản cơ Trương Công Định đem quân bản bộ của mình (gồm lính đồn điền và nông dân được chiêu mộ) về Lý Nhơn, hợp sức với người bạn trẻ Nguyễn Duy Dương gấp rút xây dựng thành một căn cứ địa vững chắc, rồi lấy đó làm bàn đạp, nhanh chóng xuất quân trở lại Gia Định tổ chức đánh phục kích tiêu hao lực lượng quân Pháp.
Sau đó, khi Nguyễn Tri Phương (được triều đình Huế cử vào thay Tôn Thất Hiệp, chỉ huy cuộc kháng Pháp ở Gia Định) kêu gọi quân dân hợp sức chống giặc (tập trung chủ yếu vào việc xây dựng đại đồn Chí Hòa, đồn này rộng 300m, dài 1000m, chia làm 5 khu ngăn cách nhau bằng bờ rào gỗ, rào tre, đào hào cắm chông, 150 cỗ đại bác các loại, bắn bằng đạn gang được bố trí trên mặt thành), thì các toán quân “ứng nghĩa”, trong đó có quân của Quản cơ Trương Công Định và của Nguyễn Duy Dương, đều qui tụ về Chí Hòa, đầu quân dưới sự chỉ huy của ông. Chính trong dịp này, Quản cơ Trương Công Định được triều đình thăng lên chức Phó lãnh binh, còn Nguyễn Duy Dương được phong chức Thiên Hộ (chức này cũng như một chức võ quan có lực lượng dân binh riêng hàng ngàn người, cai quản một khu vực dân cư khoảng ngàn gia đình)).
Đến đây, họ tên Võ Duy Lập đã mất hút từ lâu và đến tên Lập cũng chẳng ai còn nhớ nữa. Võ Duy Lập, con Tổng trấn Võ Duy Ninh coi như đã bặt vô âm tín. Ngay cả đối với bà con họ hàng ruột thịt của Võ Duy Ninh ngụ tại Bình Dương cũng coi như thế. Mối liên hệ giữa Võ Duy Lập và Thiên hộ Nguyễn Duy Dương đã hoàn toàn bị xóa sạch. Thậm chí, cái họ Nguyễn Duy cũng rất ít người biết vì trong đời sống hàng ngày, không ai gọi tên họ cả mà chỉ gọi tên, kèm theo thứ tự anh em trong gia đình (người miền Nam không gọi người con đầu là “cả” mà là “hai”), hoặc kèm theo chức vụ, phẩm hàm… Ví dụ đối với Nguyễn Duy Dương, người ta chỉ gọi: Dương, Ba Dương (vì có anh hai là Ngọc), Năm Linh, Thiên Hộ Dương. Chỉ có những người thân tín nhất, theo sát ông nhất, vào sinh ra tử cùng ông, mới biết Thiên hộ Dương chính là con trai của quan Tổng trấn Võ Duy Ninh, từ đó mà suy ra họ của ông phải là Võ Duy, thế thôi chứ không hề hay biết Dương cũng là Lập.
Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương cùng quân triều đình rút chạy. Phó lãnh binh Trương Công Định và Thiên Hộ Dương cũng rút quân về Lý Nhơn. Tại đây Trương Công Định cùng Nguyễn Duy Dương và Âu Dương Lân cắt máu ăn thề kết làm huynh đệ sống chết có nhau và bàn tính phương kế liên kết chống Pháp. Dù căn cứ địa Lý Nhơn đã được bố trí, tạo dựng vững vàng nhưng thấy tập trung quân vào một chỗ là hạ sách nên Trương Công Định để lại một phần quân số tăng cường cho Thiên Hộ Dương ở lại Lý Nhơn, rồi cùng Âu Dương Lân dẫn hơn một ngàn nghĩa binh về Gò Công, xây dựng căn cứ địa, củng cố lực lượng và tích cực chiêu mộ thêm nghĩa binh. Lực lượng của Trương Công Định nhanh chóng lớn mạnh, và cùng với Thiên hộ Dương, tiếp tục gây cho giặc Pháp nhiều thiệt hại, làm cho chúng mất ăn mất ngủ.
Ngày 5-6-1862, Triều đình Huế bạc nhược ký hòa ước (thực chất là hàng ước!) dâng ba tỉnh miền Đông (gồm Biên hòa, Gia Định, Định Tường) và đảo Côn Lôn cho Thực dân Pháp. Tháng 9-1862, triều đình Huế ra lệnh cho Trương Công Định và Nguyễn Duy Dương phải bãi binh, điều Trương Công Định đi lãnh nhiệm vụ mới ở An Giang. Trương Công Định cưỡng lệnh, giương cao ngọn cờ “Bình Tây Đại Nguyên Soái” tiếp tục chống Pháp. Lực lượng Thiên Hộ Dương tiếp tục đi theo ngọn cờ được nhân dân suy tôn đó.
Trong những tháng ngày rong ruổi dẫn dân binh đi “ứng nghĩa”, hộ chiến cho quân triều đình ở Gia Định và bước đầu xây dựng căn cứ Lý Nhơn, Nguyễn Duy Dương đem lòng yêu một người con gái ở Gia Định và coi nàng như vợ bé. Việc kết giao giữa hai người trong thời buổi loạn lạc, lòng người khó dò, là việc cần được giấu kín nên trong số những người tâm phúc nhất của Thiên Hộ Dương cũng rất ít người biết được tường tận, còn hầu như là chỉ biết mơ mơ hồ hồ, và dù có biết thì họ cũng có ý thức không mảy may tiết lộ ra ngoài.
(Về truyền thuyết người vợ bé của Thiên Hộ Dương, có nhiều câu chuyện còn lan truyền trong dân gian rất đáng được quan tâm, suy nghĩ.
Chuyện thứ nhất:
Ngày xưa, ở thôn Hòa An (phủ Tân Thành, An Giang) có một ông bá hộ ăn ở nhân hậu. Gia đình ông hiếm hoi, chỉ có một người con gái. Nàng duyên dáng, mặn mà, đã đến tuổi cập kê nhưng chưa chịu lấy chồng. Giống tính cha, dù là con nhà khá giả song nàng sống chan hòa với bà con tá điền và thường hay giúp đỡ những người nghèo khó. Nàng rất yêu hoa, thường thơ thẩn trong vườn hoa trước nhà, nên mọi người gọi nàng là Bướm.
Một hôm, có một đoàn thương lái lỡ đường, ghé nhà xin bữa cơm. Trong đoàn có một thanh niên diện mạo khôi ngô, vạm vỡ, cốt cách oai phong như một vị tướng. Thấy đây không phải là đám lái buôn bình thường, ông bá hộ bèn mời vào nhà thết đãi tử tế và gọi nàng Bướm ra hầu rượu.
Cơm nước xong, chàng thanh niên ấy mở lời cảm ơn và xin hoàn lại tiền bữa ăn. Ông bá hộ ngăn lại, đoạn bảo nàng Bướm lấy ra một túi bạc và nói:
- Theo chỗ lão xét đoán thì ngài không phải là lái buôn mà là tráng sĩ đang lo việc dân việc nước. Xin cho lão được góp phần nhỏ mọn này.
Sau một thoáng ngạc nhiên, người thanh niên thú thực:
- Quả thật là cụ tinh đời. Chúng tôi là nghĩa quân của ngài Thiên Hộ… Tôi xin thay mặt nghĩa quân nhận số bạc và hết sức cảm ơn nghĩa cử hào hiệp của cụ.
- Chẳng hay quí danh tráng sĩ là chi?
- Dạ, tên tôi là Kiều, họ Nguyễn.
- Té ra tráng sĩ là ngài Đốc binh Kiều. Thật là vạn hạnh cho lão. Nghe tiếng tráng sĩ đã lâu, hôm nay lão mới được diện kiến. Bây giờ lão có một đề nghị này: số là lão chỉ có mỗi một mụn con gái đây, nhiều thanh niên trong vùng ngấp nghé nhưng nó chưa ứng đám nào; xin tráng sĩ nhận làm thê thiếp cho nó có dịp nâng khăn sửa túi bậc anh hùng.
Người thanh niên vội nói:
- Thưa lão gia, tôi xin cảm ơn lòng tốt của lão gia một lần nữa. Nhưng về việc này thì cho tôi xin thất lễ vì tôi đã có hiền thê ở nhà. Hơn nữa, chốn lửa đạn có nữ nhi kề bên e bất tiện.
Ông bá hộ nài nỉ mãi làm người thanh niên không thể từ chối được nữa và hôm đó được coi như ngày đính ước.
Từ đó, nàng Bướm tự coi mình là gái đã có chồng. Ít lâu sau, được tin Đốc binh Kiều tử trận ở Gò Tháp, nàng lặng lẽ chít khăn tang, lập bàn thờ chồng rồi cứ thế sống thủ tiết với chồng chưa cưới cho đến lúc qua đời.
Tấm lòng nhân hậu và trung trinh tiết liệt của nàng được dân quanh vùng ngợi ca và con rạch chảy qua vườn nhà nàng được gọi là rạch Bà Bướm từ thuở đó.
Câu chuyện này làm bật ra câu hỏi: phải chăng trường hợp có vợ bé của Thiên Hộ Dương đã xảy ra tương tự như thế hoặc đó chính là câu chuyện có xuất phát trực tiếp từ trường hợp có thực của Thiên Hộ Dương vì Nguyễn Kiều chưa chắc là Nguyễn Tấn Kiều - Đốc binh Kiều mà chỉ là một cái tên che đậy tung tích? Rất tiếc là cho đến nay, chưa ai biết đích xác họ và quê quán cụ thể của Đốc binh Kiều. Dân gian thường gọi ông là Lê Công Kiều, Trần Phú Kiều hoặc Nguyễn Tấn Kiều nhưng phổ biến nhất là quan lớn Thượng. Tương truyền ông gốc miền Trung, vào Nam sinh sống ở huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường.
Câu chuyện thứ hai:
Ông Nguyễn Văn Biểu gốc người làng Tân Phú, tổng Kiến Phong, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay thuộc huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp), là con thứ tám trong một gia đình nông dân. Lúc nhỏ có theo học võ nghệ và chữ nho. Tương truyền, ông có vóc người cao lớn, rất khỏe, da đen, môi chì, tướng tá bặm trợn, trông rất dữ dằn.
Đến khi trưởng thành, ông cùng người anh thứ bảy là Nguyễn Văn Phương theo người cậu về làng Mỹ Thọ (thuộc huyện Cao Lãnh) để kiếm việc làm.
Lúc đầu ông sinh sống bằng cách làm mướn và theo người cậu đóng cối xay đi bán dạo. Thấy ông khỏe mạnh lại làm lụng siêng năng, trông tướng dữ mà té ra tính tình nhân hậu nên một gia đình khá giả, có nhiều ruộng đất ở Rạch Miễu, cũng thuộc làng Mỹ Thọ, kêu gả con gái cho. Từ đó, ông Biểu thôi đi làm mướn, quay sang trông nom ruộng đất cho nhà vợ.
Khi được tin Thiên Hộ Dương kéo quân về lấy Đồng Tháp Mười làm căn cứ chống Pháp, ông liền từ giã vợ con lên đường gia nhập hàng ngũ nghĩa quân. Nhờ khỏe mạnh, giỏi võ, gan dạ và một lòng trung thành nên được Thiên Hộ Dương chọn làm chỉ huy đội phòng vệ. Vì thế mọi người lúc bấy giờ thường gọi ông là Phòng Biểu hay Phòng Tám (vì ông thứ tám). Từ đó, tiếng tăm ông vang dội khắp vùng Cao Lãnh.
Trong suốt thời gian theo nghĩa quân, trải qua bao trận mạc, lúc nào ông cũng tỏ ra là người chỉ huy có tài, dốc lòng hy sinh cho đại cuộc. Thiên Hộ Dương rất tin cậy ông và ông trở thành người hộ vệ thân tín bên cạnh vị chủ tướng.
Khi Đốc binh Kiều nắm binh quyền thay Thiên Hộ Dương tiếp tục chống Pháp ở Đồng Tháp Mười thì Phòng Biểu trở thành cánh tay đắc lực của Đốc binh Kiều trong việc cố gắng xây dựng lại căn cứ và củng cố lại lực lượng nghĩa quân. Trong một trận đánh, Đốc binh Kiều bị thương nặng rồi hy sinh. Sau khi chôn cất đâu đó Đốc binh Kiều, ông Phòng Biểu rút quân qua Sình Lớn, về cố thủ ở ngã ba Thông Bình (Tân Thành). Mặc dù quân số ít, vũ khí thiếu thốn, thô sơ và bị Pháp tập trung càn quét liên miên, ông vẫn cùng nghĩa quân chiến đấu cầm cự kéo dài suốt bốn năm liền. Tuy nhiên, vì lực lượng ngày một hao mòn, thấy không thể duy trì được nữa nên ông ra lệnh giải tán nghĩa quân. Riêng ông phiêu bạt rày đây mai đó.
Pháp và tay sai truy lùng tìm bắt ông ráo riết nhưng không có kết quả. Chúng bèn quay sang tìm cách bắt con cháu ông để bức ông ra hàng. Túng thế, ông phải cải họ người con trai duy nhất của ông từ họ Nguyễn sang họ Võ và giao cho bà Nguyễn Thị Chung là cháu gái của ông (lúc bấy giờ đã theo chồng về ở rạch Cái Da, xã Nhị Mỹ) trông nom giúp.
Ông Phòng Biểu tiếp tục sống đời ẩn dật đến năm 1914 thì mất, thọ 84 tuổi. Phần mộ của ông hiện ở xóm Giồng, rạch Cao Miên, thuộc xã An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Câu chuyện thứ hai này bật ra câu hỏi: người con trai duy nhất của ông Phòng Biểu lớn lên rồi ra sao và sao ông Phòng Biểu không đổi họ cho con từ Nguyễn sang bất cứ họ nào khác mà phải là họ Võ? Hay phải chăng đứa con trai đó chính là con của Thiên Hộ Dương có với người vợ bé và đã gửi gắm lại cho gia đình ông Phòng Biểu, một trong những thủ hạ thân tín nhất của mình? Có thể nào cha vợ của Phòng Biểu cũng là cha vợ của Thiên Hộ Dương và vợ bé của Thiên Hộ Dương là chị ruột của vợ Phòng Biểu?
Câu chuyện thứ ba được lan truyền trong dân gian vùng Bình Cách:
Ông Năm Linh (tức Ngũ Linh Dương?) người miền Trung, võ nghệ cao cường, tính tình cương trực, hay làm việc nghĩa, giao du rộng, …, vào Nam lập nghiệp. Lúc Tây xâm lược Nam Kỳ, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa dũng, quyên góp lúa gạo, mua súng đạn đánh Tây, được nhiều người hưởng ứng. Bá hộ Học (Trần Văn Học) là điền chủ giàu có nhất nhì trong vùng chẳng những ủng hộ lúa gạo mà còn bán ruộng lấy tiền bạc mua súng đạn ủng hộ nghĩa quân. Để khích lệ người anh hùng có chí lớn, bá hộ Học đem đứa con gái duy nhất là Trần Thị Vàng (bà Bảy Vàng) gả cho ông Năm Linh. Từ khi về với ông Năm Linh, dù là gái đưa chứ không phải là vợ chính thức có cưới hỏi, nhưng bà Bảy Vàng chẳng những một lòng chung thủy mà còn giúp chồng nhiều việc trong công cuộc quốc sự. Khi ông Năm Linh cùng nghĩa quân rút vào Đồng Tháp Mười, bà cũng theo chồng để lo việc tiếp tế lương thực nuôi quân. Đến khi Đại đồn Tháp Mười thất thủ, ông Năm Linh theo ghe bầu về Huế cầu viện, bà ở lại nuôi con chờ chồng. Khi ông Năm Linh bị chết ngoài biển, bà Bảy Vàng nghe tin, buồn rầu mà mất.
Câu hỏi đặt ra cho câu chuyện này là: ông bá hộ Học phải chăng cũng là ông bá hộ ở câu chuyện thứ nhất? Phải chăng bà Bảy Vàng đã quá yêu người anh hùng mà tình nguyện đi theo nghĩa quân và đã có với người anh hùng một đứa con gái?
Câu chuyện thứ tư là theo lời kể của Võ Quế (85 tuổi vào năm 1989), cháu nội của Võ Duy Dương:
Trong thời gian ở Nam Kỳ, Võ Duy Dương có lấy vợ hai và đã sinh hạ được hai người con trai tên là Võ Châu và Võ Phong. Nhưng tên tuổi và quê quán của bà này thì chưa xác định được. Sau khi Võ Duy Dương qua đời, có một người đàn bà ở trong Nam ra Huế tâu với triều đình về hoạt động chống Pháp và gia đình của Võ Duy Dương trong Nam. Sau đó bà này tìm đến dòng tộc của Võ Duy Dương ở Nhơn Tân (An Nhơn, Bình Định), sống một thời gian rồi qua đời tại đây. Hiện nay mộ của bà vẫn nằm chung trong khu mộ gia đình họ Võ dưới chân núi Thơm. Ngôi mộ này được gọi là mộ của bà Đồng Nai (vì bà là người xứ Đồng Nai, tức miền Nam).
Câu hỏi đặt ra ở đây là: Phải chăng bà Đồng Nai chính là Trần Thị Vàng và bà này đã mang người con gái của bà với Võ Duy Dương ra Bình Định, đến nhà bà vợ cả rồi nghe tin Võ Duy Dương đã chết thì buồn rầu ngã bệnh mà mất? Phải chăng người con gái đó lại là Võ Thị Thắm (tên đổi lại từ Võ Châu)? Còn Võ Phong chính là Võ Sắc, con trai của Võ Duy Dương với một người vợ thứ nữa? Vậy, có thể Thiên Hộ Dương khi hoạt động đã có 2 người vợ thứ? Chuyện nhiều vợ ngày xưa là thường tình! Cũng có thể người vợ thứ sinh thành ra Võ Sác chính là Trương Gia Hương còn bà vợ cả tên là Phạm Thị Liệu, người thôn Tráng Long cùng huyện nay thuộc xã Nhơn Tân? Hay bà Liệu cũng chỉ là vợ thứ sau này của ông Thiên Hộ, khi ông từ Nam ra mới tác hợp?)
Sau hàng ước của triều đình Huế, lực lượng quân triều đình rút khỏi 3 tỉnh miền Đông làm cho sức mạnh kháng Pháp bị suy giảm đáng kể. Sự quay lưng của triều đình Huế đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp rảnh tay đàn áp quân ứng nghĩa. Biết không thể lung lạc được Trương Công Định và Nguyễn Duy Dương, quân Pháp tập trung lực lượng, với sự tham gia cúc cung, chỉ đường mách lối của đám tay sai phản dân hai nước người Việt, tổ chức hành quân đánh chiếm, quyết tâm tiêu diệt cuộc kháng chiến do Trương Công Định lãnh đạo.
Trong tháng 1-1863, nghĩa quân tổ chức chiến đấu, cản phá có hiệu quả các cuộc hành quân càn quét của địch bằng những trận đột kích, phục kích, tập kích chớp nhoáng… trên địa bàn khắp 3 tỉnh miền Đông. Quân Pháp bị tiêu hao nhiều binh lực, buộc phải dừng cuộc tiến công, chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu.
Sau khi đã có thêm viện binh, Thực dân Pháp tập trung đánh vào Gò Công - Căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến do Trương Công Định chỉ huy. Mở đầu cuộc tiến công, quân Pháp đánh Gò Đen, Đồng Sơn, Vĩnh Lợi (là hệ thống tiền đồn bảo vệ căn cứ). Ngày 26-2-1863, đại binh Pháp tiến về Trại Lá (Bến Chùa). Trương Công Định khéo léo tổ chức các trận đánh ngăn chặn, tiêu hao địch, đồng thời bí mật tổ chức cho đại bộ phận lực lượng vượt ra khỏi vòng vây. Khi quân Pháp lọt được vào đại bản doanh thì nghĩa quân đã rút đi tự bao giờ.
Rời căn cứ Gò Công, Trương Công Định cùng toàn bộ nghĩa quân bí mật trở lại căn cứ Lý Nhơn, hợp binh với Thiên hộ Dương, tiếp tục tổ chức đánh du kích chống Pháp. Với một căn cứ Lý Nhơn chắc chắn không thể trụ vững đánh lâu dài trước một đội quân viễn chinh và tay sai đông đảo, được trang bị vượt trội hơn hẳn về vũ khí. Do đó trong thời gian này, Trương Định và Thiên Hộ Dương cùng các bộ tướng thân tín bàn thảo và quyết định tạo dựng 2 căn cứ mới để tránh bị co cụm và tạo khả năng phát triển thêm lực lượng nghĩa binh. Căn cứ thứ nhất dự định thành lập tại khu vực giữa làng Tân Phước và Kiểng Phước thuộc đất Gò Công. Đó là nơi cây lá rậm rạp bên hữu ngạn sông Soài Rạp nên cũng được dân chúng gọi nôm na là vùng “Đám lá tối trời”. Căn cứ thứ hai được dự định xây dựng trong Đồng Tháp Mười mênh mông, lấy Gò Tháp làm vị trí trung tâm (và đây cũng được xác định là căn cứ chính). Thiên Hộ Dương, với tài tổ chức, xây dựng căn cứ ở Lý Nhơn mà chính Trương Công Định đã công nhận, trở thành nhân vật chính khẩn trương tạo dựng căn cứ địa Gò Tháp và đồng thời cũng là người lãnh đạo nghĩa quân ở căn cứ này. Đi đôi với việc đó, Thiên Hộ Dương đã cử người tâm phúc đi các tỉnh Định Tường, An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long, Cà Mau, để vận động quyên góp tiền bạc, mua súng đạn. Đến giữa năm 1863, ông giao trọng trách này cho Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, người tâm phúc và cũng là trợ thủ đắc lực của ông. (Đến giữa năm 1864, đám quan lại trung quân mù quáng, răm rắp chấp hành Hiệp ước 1862 đã bắt giam Thủ khoa Huân tại Châu Đốc rồi giao cho thực dân Pháp trước áp lực của chúng. Thực dân Pháp sau đó đã xử tử ông. Khẩu khí và khí phách của hàng loạt văn thân như Thủ khoa Huân vẫn còn vang vọng đến tận ngày nay, qua lời thơ của Mai Xuân Thưởng:
               Cửa trường tiếng dạ miệng còn hơi
               Cờ nghĩa treo lên đã ngất trời
Đạo trọng vua tôi mình dám quản
               Oán hờn người Pháp có đâu vơi
Đúng là bất khuất, đúng là anh hùng!)
Được Việt gian mật báo, ngày 25-9-1863, quân Pháp bất ngờ bao vây tập kích Lý Nhơn. Nghĩa quân chống trả quyết liệt, chọc thủng vòng vây, nghi binh đánh lạc hướng địch. Một bộ phận nghĩa quân theo Trương Định bí mật rút về vùng “Đám lá tối trời”, bộ phận còn lại theo Thiên Hộ Dương bí mật rút vào Đồng Tháp Mười. Người đời sau, may mắn đã ghi tạc được lời nói lúc bấy giờ của ông Thiên Hộ: “Tôi sẽ rút lui về Tháp Mười ẩn nấp, chờ đợi thời cơ để quật trả một trận mới… Tôi luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân”.
Khoảng cuối năm 1862, khi còn ở căn cứ Lý Nhơn, Thiên Hộ Dương, từ một nguồn tin bí mật, biết được người thiếu nữ mà ông coi là vợ bé đã sinh hạ cho ông một người con trai. Ông bèn đặt tên con là Nguyễn Duy Sác (ám chỉ rừng sác, nơi có căn cứ Lý Nhơn?).
Nhận thấy rằng cuộc chiến đấu chống Pháp sẽ ngày càng ác liệt, có thể sống nay chết mai, nên Thiên Hộ Dương cử người thuộc hạ thân tín nhất trong hàng thân tín, bí mật đi gặp người vợ trẻ của ông để chu cấp, dặn dò kỹ lưỡng, phòng khi có biến, bị tai ương đe dọa thì biết đi đâu, gặp ai để mà nhờ cậy. Người hầu cận thân tín này về sau đã hy sinh trong chiến đấu nên thông tin về người vợ bé của Thiên Hộ Dương cũng trở nên nhạt nhòa huyền hoặc.
Vừa chân ướt chân ráo đến Đồng Tháp Mười, Thiên Hộ Dương tức tốc tiếp tục xây dựng căn cứ qui mô hơn, kiên cố hơn để tạo nên một khu vực có sức đề kháng mạnh mẽ. Ông đặt đại bản doanh tại Gò Tháp, xây dựng đồn Trung ở đó, với nhiều trạm gác ở bốn phía và đài quan sát trên đỉnh gò. Ngoài đồn Trung, ông còn dựng thêm 3 đồn chính án ngữ 3 “con đường gạo”: Đồn Tiền trên đường Cái Nứa, Đồn Tả trên đường Mộc Hóa hướng Gò Bắc Chiêng, đồn Hữu trên đường Cần Lố, khoảng từ 200 - 300 quân trấn giữ một đồn.
Năm 1864, nghe tin đồn Thiên Hộ Dương chiêu binh khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười, nhiều bậc quân tử, mã thượng, tinh thông võ nghệ, nổi tiếng trong dân dã kéo thuộc hạ tới đầu quân. Trong đó, có những người như: hai anh em Hùynh Lực, Huỳnh Thất (lưu dân gốc Quảng Nam ở Đồng Nai), Thủ Chiến, Phòng Biểu, Nhiêu Bá, Nhiêu Chấn (là chiến hữu của anh em họ Huỳnh, ở Mộc Hóa), đặc biệt có bốn người là: Trần Công Thuận, Nguyễn Thanh Long, Ngô Tấn Đức, Trương Văn Rộng đến từ Cai Lậy mà sau này lừng lẫy với danh thơm: “Tứ Kiệt Cai Lậy” (ngày nay vẫn còn miếu thờ tứ kiệt ở thị trấn Cai lậy, tỉnh Tiền Giang và nhân dân vẫn gìn giữ, nhang khói quanh năm)…
Cũng trong năm 1864, khi giặc Pháp đánh vào “Đám lá tối trờ”, Trương Công Định hy sinh, các bộ tướng dưới quyền và hầu hết số nghĩa quân còn lại đã vượt thoát được vòng vây, như đã hẹn trước, bí mật lần về Đồng Tháp Mười theo Thiên Hộ Dương tiếp tục chống Pháp. Trong số nhiều chỉ huy nghĩa quân của Trương Định đến được Đồng Tháp Mười, có : Đốc binh Dương, Trần Kỳ Phong, Thống Bình, Thương Chấn, Thống Đa, Quản cơ Văn, Quản cơ Là (Bùi Quang Diệu)…
Nhờ đó lực lượng nghĩa quân của Thiên hộ Dương lớn lên nhanh chóng, thực sự trở thành trung tâm kháng chiến mới, thu hút hầu hết lực lượng chống Pháp ở Nam Kỳ vào những năm 1864 - 1866.
Ngay những tháng cuối năm 1864, nghĩa quân của Thiên Hộ Dương đã bắt đầu tăng cường hoạt động chiến đấu, tuy nhiên chủ yếu là tổ chức đánh du kích, tiêu hao sinh lực địch, giữ vững thế phòng ngự. Sang năm 1865, nghĩa quân mở rộng địa bàn hoạt động, tổ chức những trận đánh lớn hơn, tấn công những đồn bốt quan trọng của địch như Mỹ Trà, Mỹ Quí, Cái Bè, Thủ Thừa, gây cho địch nhiều tổn thất về người và vũ khí. Nhất là tại hướng Cái Bè, Mỹ Quí, nghĩa quân đã có lúc chọc thủng phòng tuyến địch.
Năm 1865, nghĩa quân Thiên Hộ Dương thực sự đã gây cho Pháp và tay sai nhiều khốn đốn. Nhân dân Nam Kỳ, đặc biệt là nhân dân miền Tây, ngày càng ủng hộ, ngày càng tích cực đóng góp khí giới, lương thực cho nghĩa quân. Tuy đã xuất hiện xu thế và triển vọng nhưng thời gian là quá ngắn để cuộc kháng chiến của Thiên Hộ Dương bùng lên, lan tỏa rộng khắp thành cuộc chiến tranh nhân dân đúng nghĩa.
Ngày 14-4-1866, thực dân Pháp huy động một lực lượng áp đảo, hơn hẳn nghĩa quân, gồm hơn 1.000 lính viễn chinh với nhiều tàu chiến và đại bác, chưa kể lực lượng mã tà (ngụy quân), chia ra làm 3 đạo đồng loạt tiến công căn cứ Đồng Tháp Mười theo 3 hướng Cần Lố, Cái Nứa và Gò Bắc Chiêng.
Nghĩa quân trong các đồn Sa Tiền, Ấp Lý, Tiến đã chống trả rất quyết liệt nhưng dưới tầm công phá mãnh liệt của đại bác địch, họ yếu dần đi, buộc phải bỏ đồn, lần lượt rút ra, về phía sau. Dù chiếm được các đồn đó nhưng địch đã phải chịu thiệt hại nặng.
Đạo quân Pháp thứ ba, sau khi chiếm được đồn Gò Bắc Chiêng thì không còn sức tiến sâu hơn, phải chờ viện binh tới để đánh đồn Tả.
Đồn Tả lúc này có 350 nghĩa quân, 40 khẩu đại bác, do Thiên hộ Dương đích thân chỉ huy. Nghĩa quân chiến đấu từ trưa đến chiều tối thì hết đạn, phải bỏ đồn, tản về phía sau.
Khi địch chiếm được đồn Trung thì nghĩa quân đã rút đi hết. Tuy nhiên chúng không đám tiến sâu hơn và cũng không dám ở lại đồn.
Căn cứ kháng chiến Gò Tháp đến ngày 18-4-1866 coi như không còn nữa. Lực lượng nghĩa quân Thiên Hộ Dương dần tan rã, tứ tán: nhóm của Tứ Kiệt Cai Lậy rút về Thuộc Nhiêu (Cai Lậy), tiếp tục lập mặt trận đánh Pháp, nhóm trong đó có anh em họ Huỳnh thì kéo về với Quản cơ Trần Văn Thành ở Láng Linh (Châu Đốc), riêng nhóm của Đốc binh Kiều thì ở lại bám trụ, tiếp tục chiến đấu. Sau một thời gian ngắn, khi Đốc binh Kiều hy sinh thì nhóm này cũng tan rã. Ngọn cờ kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ lúc này được nhân dân miền Tây đón nhận và tiếp tục giương cao.
Vì sao khởi nghĩa Thiên Hộ Dương đã có lúc bật dậy khá mạnh như thế nhưng vẫn phải chịu thất bại cay đắng? Có thể cho rằng cuộc kháng chiến đó đều khiếm khuyết cả 3 yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nếu có một chút thiên thời nào thì triều đình Huế cũng đã chặn đứng mất rồi. Căn cứ địa Gò Tháp đúng là có tính lợi hại, nghĩa là nếu biết vận dụng địa hình, áp dụng cách đánh phù hợp với địa hình đó thì nó có lợi, còn không nó sẽ trở nên tai hại. Đồng Tháp Mười vào mùa khô là một vùng tương đối bằng phẳng, làm cho hiệu quả công phá bằng đại bác được phát huy tối đa. Dùng đồn trại cố thủ, khi đồn vỡ thì mất luôn cả thế đứng, đành phải chạy dài. Muốn duy trì cuộc chiến đấu lâu dài ở căn cứ Đồng Tháp, thì phải kết hợp giữa cố thủ trong đồn và vận động chiến bên ngoài trên cơ sở lấy chiến tranh du kích làm nền tảng: rút nhưng không chạy dài, tiến mà địch không hay, đánh xuất kỳ bất ý, kết hợp đánh từ trong ra, đánh từ ngoài vào (không cần phân biệt đâu là trong, đâu là ngoài), nếu cần bảo toàn lực lượng thì dứt khoát phá đồn, rút ngay; thậm chí bỏ luôn căn cứ (vì đâu cũng là căn cứ!)… Muốn làm được điều đó thì phải có đủ nhân hòa, vì chỉ khi có đủ nhân hòa mới tạo ra địa lợi và thậm chí trong chừng mực nào đó là cả thiên thời. Cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương (và trước đó là của Trương Định) cũng như các cuộc nổi lên đánh Pháp khác ở Nam Kỳ - Lục Tỉnh là hoàn toàn chính nghĩa, nhưng chúng chưa đủ thời gian (hay chưa thể) để trở nên hoàn toàn sáng tỏ, nên chưa kịp bám rễ sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân thì đã sớm bị tiêu diệt, đánh bại. Mặt khác hàng ngũ chỉ huy nghĩa quân hầu hết là những dân binh nghĩa hiệp trưởng thành lên qua trận mạc nên họ thiếu hẳn kiến thức về nghệ thuật quân sự. Đến cả những người chỉ huy xuất thân từ quân đội chính qui của triều đình cũng bị lối đánh máy móc lạc hậu với những vũ khí cổ lỗ, lấy thành quách làm nơi phân định thắng bại, luôn bị cuốn hút vào lối đánh trận tuyến của quân đội viễn chinh, thiện chiến, có vũ khí đầy đủ và hiện đại hơn hẳn. Ngay Nguyễn Tri Phương vẫn lẩn quẩn với cách đánh lạc hậu đó thì còn nói tới ai? Đại đồn Chí Hòa to thế, có quân đông thế mà chỉ “đùng một phát” là thất thủ. Thật quá rõ! Sự dũng cảm tuyệt vời của nghĩa quân, sự bất khuất của các thủ lĩnh nghĩa quân, là không thể phủ nhận được. Nhưng như thế thôi chưa đủ. Cần phải có một lãnh tụ có tài năng kiệt xuất, biết qui tụ bốn phương về một mối, biết lôi kéo quần chúng về mình, đánh lâu dài để ngày một tỏ rõ chính nghĩa, tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện chống quân xâm lược.
Ngày nay, khi nhìn lại thời kỳ ấy, chúng ta thấy cái tinh thần lăn xả đánh giặc, “vì nước quên thân” mà bất chấp tất cả của các sĩ phu, hào kiệt, dân binh, là bất hủ, nhưng cũng có cả cái tình cảm bùi ngùi thương tiếc dâng ngập cõi lòng.
Con người Thiên Hộ Dương và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo đã được nhân dân Nam Kỳ lúc bấy giờ nói riêng và cả nước nói chung kính phục, mến mộ và tôn vinh, chúng ta sẽ mượn lời của những chiến hữu của Thiên Hộ Dương, từng theo Thiên Hộ Dương vào sinh ra tử nói về ông:
Huỳnh Trung Thu, cháu nội Huỳnh Thất có để lại di bút, nội dung có đoạn:
“…
Ngài Thiên Hộ Dương dũng lược vô song, được nhân dân vùng Nam Kỳ - Lục tỉnh tôn thờ và ngưỡng mộ. Đâu đâu cũng gọi ngài là “quan lớn”, mặc dầu ngài không hề thích làm quan.
Dòng họ Huỳnh chúng tôi đời đời tôn thờ ngài Võ và nguyện theo gương ngài…”.
Đây là một đoạn trong di bút của Huỳnh Kim Trọng, cha của Huỳnh Trung Thu:
“Trước lúc lâm chung, cha tôi (Huỳnh Thất) còn căn dặn con cháu: “Dòng họ ta tuy không sinh ra ở miền Nam Kỳ - Lục tỉnh này, nhưng đã coi như đây là quê hương. Bởi miền Trung có công sinh, thì nơi này có công nuôi dưỡng, hun đúc cho ta thành người. Vậy các con phải xem đây là đất tổ, là ngôi nhà chung. Điều quan trọng nữa mà các con phải ghi lòng, tạc dạ, đó là nghĩa vụ phải thờ cúng ông Thiên Hộ Võ Duy Dương, người mà ta coi như người anh em ruột thịt của mình, người chủ tướng kính yêu của cả quê hương lục tỉnh này… Nay ông đã ra người thiên cổ mà không còn ai thờ phượng. Vậy các con hãy giữ bài vị với mấy chữ “Võ Duy Dương vị quốc vong thân” này để thờ như thờ cha vậy…
Nguyện hương hồn người vị quốc vong thân
Sinh vi tướng, tử vi thần
Xin gia hộ chúng dân an lạc”.
Ông Ba Đương, người thân cận của Thiên Hộ Dương ở chiến khu Đồng Tháp, có để lại thủ bút như sau:
“Cuộc đời tôi may mắn gặp được người họ Võ, đồng hương Nghĩa Hành, Quảng Ngãi. Tôi vốn là một nông dân, tưởng suốt đời sẽ mãi mãi là dân đen bị áp bức, chỉ khi gặp được ông Võ thì mọi thứ mới đổi thay. Chính Võ gia đã cứu gia đình tôi, nhân dân tôi…”.
Sau khi căn cứ Gò Tháp vỡ lở, thực dân Pháp loan tin hai vị, chủ tướng Thiên Hộ Dương và phó tướng Đốc binh Kiều đã bị giết chết. Đốc binh Kiều hy sinh là điều có thật, nhưng trường hợp ông Thiên Hộ thì mờ mịt hơn nhiều. Pháp nói Thiên Hộ Dương đã bỏ xác cùng nhiều nghĩa quân khi chiến khu Đồng Tháp Mười thất thủ, nhưng không trưng ra được bằng chứng. Sau đó chúng lại tung tin Thiên Hộ Dương đã bị một tên cướp biển là Lý Sen giết chết tại cửa biển Thần Phù, khi ông định vượt biển ra Bình Thuận. Tung tin như thế nhưng Pháp vẫn tổ chức lùng sục ráo riết. Tin đó cũng có thể là tin giả do chính ông Thiên Hộ bày ra để đánh lừa mật thám Pháp.
Dư luận xã hội hồi đó nói chung đều thừa nhận Thiên Hộ Dương đã chết và vì ông là một người cô độc, không có bất cứ người thân nào ở cạnh nên sau khi chết, mồ mả của ông cũng không có người chăm sóc, nhang khói. Vì vậy mà có câu hò não ruột và đầy thương cảm đối với một người anh hùng:
Ai về Đồng Tháp mà coi
Mả ông Thiên Hộ trăng soi lạnh lùng…
Sự thực thì ở Gò Tháp chỉ có mộ Đốc binh Kiều. Khắp Nam Kỳ - Lục tỉnh chẳng nơi nào có mộ Thiên Hộ Dương.
Thế thì sau khi căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười bị tan vỡ, Thiên Hộ Dương đã anh dũng hy sinh hay còn sống? Ông Trương Hiếu Nghĩa, người xã Cần Đăng, An Giang có viết:
“Theo ông ngoại tôi kể lại thì xưa, lúc ông Quản Thành khởi nghĩa ở Láng Linh, ông tôi có theo ngài Cố quản để đánh Tây. Thời gian này, ông ngoại tôi có liên lạc với ngài Nhiêu Chấn, vốn là một quan triều đình ở An Giang trấn, sau bỏ theo ngài Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười để đánh Tây.
Có lúc ông Võ Duy Dương về An Giang trấn để bắt liên lạc với nghĩa quân Láng Linh và với ông Thủ khoa Huân nhưng không thành. Sau nghe nói ngài Võ Duy Dương rời Đồng Tháp Mười trở về quê ở Quảng Ngãi ngoài miền Trung.
Đây là những việc tôi biết khá chính xác nên ghi lại để người sau nhớ”.
Vậy thì Thiên Hộ Dương, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Đồng Tháp Mười vẫn còn sống và đã vượt thoát sự truy lùng của Pháp để trở về ẩn náu tại quê nhà. Nhiều nhà nghiên cứu sử ngày nay, qua những tài liệu quan trọng thu thập được, qua những nhân chứng đáng tin cậy tiếp xúc được, đều thừa nhận như vậy.
Và chúng ta tiếp tục xây dựng truyền thuyết của mình:
Nghe tin chồng mình, Thiên Hộ Dương đã bị sát hại, người vợ trẻ vô cùng đau đớn. Từ nay, nàng đã mất người chồng mà nàng tôn thờ, kính phục.
Mật thám Pháp và tay sai trong khi tích cực dò la tung tích của Thiên Hộ Dương (xem thực sự còn sống hay đã chết và ở đâu) cũng cố gắng xác định danh tính và chỗ ở của người phụ nữ mà theo nguồn tin phong phanh, là vợ lẽ của ông.
Để bảo vệ giọt máu đào của Thiên Hộ Dương, người phụ nữ xinh đẹp, tuổi đời còn rất trẻ và đáng thương, nghe theo lời dặn xưa kia của chồng mình, đã bế con lần tìm đến gặp một người ở Bình Dương, vùng đất định cư ở phía nam của dòng họ Võ Duy. Vị thân tộc, sau khi nghe người phụ nữ trình bày, lần đầu tiên mới biết Thiên Hộ Dương chẳng phải ai xa lạ: chính là Võ Duy Lập. Tuy nhiên sau đó ông luôn giấu kín điều này vì có thể gây nguy hại khó lường.
Vị thân tộc nghe xong câu chuyện, đã khẩn trương thu xếp; bí mật tổ chức đưa vợ con ông Thiên Hộ Dương ra Hòa Đa - Bình Thuận, lúc này vẫn là “đất riêng” của triều đình Huế nên cũng tương đối an toàn hơn, tìm gặp một người họ Trương, thân tộc bên vợ cả của ông Thiên Hộ.
Thân tộc họ Võ và thân tộc họ Trương định tìm cách đưa hai mẹ con ra Nghĩa Hành - Quảng Ngãi. Nhưng người phụ nữ xin ở lại vì chồng thì chết rồi, thân gái dặm trường mù mịt quá. Hai người kia nghe thấy có lý, nhưng nếu người phụ nữ không đi thì cũng phải gửi đứa con ra ngoài đó, vừa đảm bảo an toàn cho nó, vừa đưa nó về với dòng tộc quê hương. Người phụ nữ tuy buồn khổ nhưng cũng đành chấp nhận. Nàng nghĩ rằng mai kia, khi sóng yên biển lặng, sẽ còn có dịp ra đó thăm con.
Tuy nhiên, việc gửi đứa bé ra Quảng Ngãi chưa hẳn đã hay, vì nếu mật thám Pháp dò biết được quê của Thiên Hộ Dương ở Nghĩa Hành và vợ con ông đang sống ở đó thì rất có thể đứa bé phải chịu vạ lây. (Đến lúc này mật thám Pháp vẫn chưa biết quê Thiên Hộ Dương ở đâu. Ngay cả triều đình Huế, mãi đến năm Tự Đức thứ 32, tức năm 1879, trong một sắc phong mới thấy nói đến tổ quán Võ Duy Dương ở Quảng Ngãi). Hơn nữa, Thiên Hộ Dương mất rồi (họ nghĩ thế), gửi đứa bé về đó có được sống trong tình bao bọc không, hay là bị hắt hủi, hoặc cũng có thể người vợ cả của ông không còn ở Nghĩa Hành nữa mà đã lẳng lặng về quê mẹ chồng (vợ Võ Duy Ninh) đâu đó ở An Nhơn - Bình Định tá túc, tránh sự rủi ro. Suy đi tính lại, họ cho rằng gửi đứa bé ra Nghệ An, nhờ gia đình danh sư Hoàng Đường cưu mang là hợp tình hợp lý hơn cả, vì Hoàng Đường có quan hệ ruột thịt với Hoàng Diệu, Hoàng Diệu là bạn thân của Võ Duy Ninh, trong khi đó Hoàng Đường cũng là bạn tâm giao của Trương Gia Hội, mà Trương Gia Hội vừa là anh họ vợ, vừa là bạn thân của Võ Duy Dương.
Thế là đứa bé được đưa về Nghệ An. Gia đình Hoàng Đường đã mở rộng vòng tay yêu thương đón nhận và nuôi dạy đứa bé nên người. Cái tên Sác được dân địa phương đọc trại ra, hiểu là Sắc; cái họ Nguyễn Duy được đổi thành Nguyễn Sinh để tuyệt đối không cho dính dáng gì đến ông Thiên Hộ nữa. Từ đó cậu bé mang một họ tên mới: Nguyễn Sinh Sắc (họ Nguyễn sinh ra Sắc?). Có thể rằng, trước khi chuyển họ Nguyễn Duy sang Nguyễn Sinh, trong thực tế đã có một sự dàn xếp bí mật nào đó để danh chính ngôn thuận, Nguyễn Duy Sắc trở thành con em ruột thịt thuộc dòng họ Nguyễn Sinh. Chính sự dàn xếp bí mật này đã làm cho tông tích của Nguyễn Sinh Sắc trở thành uẩn khúc, khó hiểu đối với chúng ta.
Sinh Sắc lớn lên được ông Hoàng Đường gả con gái là Hoàng Thị Loan cho. Họ tác hợp và sinh ra người con mà cả dân tộc Việt đang mỏi mòn chờ đợi: Nguyễn Sinh Cung, người mà sau này trở thành vị đại anh hùng dân tộc có tên Hồ Chí Minh.
Sau khi gửi gắm đứa con, người vợ bé của Thiên Hộ Dương trở về bản quán (có thể là ở đâu đó thuộc Định Tường mà cụ thể có thể là ở …, theo như cách gọi ngày nay là Cao Lãnh - Đồng Tháp, còn Gia Định chỉ là tạm cư). Năm tháng qua đi, người thiếu phụ trẻ và xinh đẹp ấy đã đi bước nữa, sinh con đẻ cái, sống cuộc đời thường tình như bao người phụ nữ khác. Câu chuyện thầm kín của nàng đã không một lần được thổ lộ. Người dân địa phương không thể ngờ được nàng đã từng làm vợ một vị anh hùng nổi tiếng khắp Nam Kỳ - Lục Tỉnh, người đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp kiên cường ở Đồng Tháp Mười. Tuy nhiên, khả năng nhiều hơn là sau khi gửi con đi và nghĩ rằng ông Thiên Hộ đã hy sinh, nàng quá đau buồn nên lâm bệnh, mất sớm.
Truyền thuyết kể tiếp:
Trong trận tấn công tổng lực của quân Pháp vào căn cứ Đồng Tháp Mười, Thiên Hộ Dương bị thương nặng khi trực tiếp chỉ huy nghĩa quân chiến đấu ở đồn Tả. Một vài thuộc hạ tâm phúc nhất khiêng ông ra khỏi đồn về phía sau rồi bí mật tìm đường thoát khỏi vòng cuộc chiến, đưa đến một cơ sở tuyệt đối tin cậy để chữa trị. Trong thời gian chữa trị, Thiên Hộ Dương đã định quyên sinh một phen bởi quá đau buồn trước sự thất bại của cuộc kháng chiến, trước tin tức các chiến hữu cùng mình vào sinh ra tử đã hy sinh, nhất là sự hy sinh của Đốc binh Kiều và tin thủ khoa Nguyễn Hữu Huân - bạn chiến đấu và trợ thủ đắc lực của nghĩa quân Đồng Tháp bị bắt. Tuy nhiên, nhờ có sự ngăn chặn kịp thời của một thuộc tín tâm phúc túc trực nên cuộc quyên sinh bất thành. Sự kiện này xảy ra vào tháng 10-1866. Thuộc tín này cũng chính là bạn chiến hữu trong số các bạn bè chiến hữu theo ông rời quê hương vượt biển vào Nam đi khai hoang lập ấp năm 1857.
(Có thể rằng sau khi căn cứ địa Đồng Tháp Mười thất thủ, một cánh nghĩa quân do Võ Duy Dương chỉ huy rút về phía đông và bị Pháp chặn đánh. Trận đánh lớn giữa hai bên diễn ra mấy ngày liền tại vùng Cái Thia thuộc quận Cái Bè và Thiên Hộ Dương bị thương nặng trong trận này. Cánh quân này tiếp tục rút về Mỹ Tho, Cai Lậy, sang Cao Lãnh, lên Ba Thằng Minh, rồi Gò Bắc Chiêng. Tại đây, cánh quân này đã hợp được với cánh nghĩa quân rút về phía tây (lên Hồng Ngự - Lăng Xăng - Thông Bình) do Nguyễn Văn Cẩn chỉ huy và một vài toán nhỏ khác của Trương Tấn Minh, Phòng Biểu… chỉ huy.
Ở đó, nghĩa quân đã củng cố lại lực lượng nhưng chỉ huy chung và trực tiếp không còn là Thiên Hộ Dương nữa mà là một nhân vật khác. Tuy nhiên, để giữ vững tinh thần nghĩa quân và cũng nhằm cố gắng phát triển lực lượng về sau mà những thủ lĩnh nghĩa quân lúc này đã thống nhất ý kiến và loan tin rằng Thiên Hộ Dương vẫn trực tiếp cầm quân chiến đấu.
Củng cố lực lượng xong, nghĩa quân của Thiên Hộ Dương tích cực bố trí lại thế trận, chọn những cách đánh linh hoạt hơn. Trung tâm kháng chiến được chuyển về khu vực tổng Cầu An Hạ ở Bắc Đức Hòa, liền với Trảng Bàng - Tây Ninh. Thủ lĩnh nghĩa quân cũng đã tìm gặp Trương Quyền (còn gọi là Trương Tuệ, con Trương Định), thủ lĩnh phong trào kháng chiến tại đây để bàn bạc phối hợp và liên minh với Poucombo, một thủ lĩnh kháng chiến khác, người Khơ-me.
Mở màn cuộc liên minh Việt - Khơme này là chiến thắng Tây Ninh vào ngày 7-6-1866. Nghĩa quân tiêu diệt tại trận 12 quân Pháp, trong đó có chủ tỉnh Tây Ninh là Larclauze và viên thiếu úy Le Sage. Ngày 14-6-1866, Marchaise, trung tá thủy quân lục chiến Pháp, chỉ huy 150 lính với hai cỗ đại bác tìm diệt nghĩa quân. Trong lúc lội qua rạch Dinh, đội hình quân Pháp bị lọt ổ phục kích. Bằng cung nỏ, gươm giáo và một ít súng trường, nghĩa quân đã dũng cảm đánh giáp lá cà, giết chết Marchaise và nhiều lính Pháp, số còn lại bỏ chạy tán loạn.
Hai chiến thắng đó đã tạo được tiếng vang lớn, làm nức lòng những người yêu nước. Về tinh thần chiến đấu của nghĩa quân thời kỳ đó, một học giả người Pháp tên là Paulin Vial có viết: “Người An Nam với vũ khí thô sơ chống với súng carbine, họ cứ việc nhào vô và đánh với một nghị lực mù quáng, chứng tỏ rằng họ can đảm và quyết tâm một cách phi thường…”.
Ngày 24-6-1866, nghĩa quân lại tấn công đồn Thuận Kiều và Trảng Bàng.
Ngày 27-6-1866, Pháp điều một lực lượng mạnh gồm 200 lính Pháp, 100 lính mã tà và một pháo thuyền do thiếu tá Rosse chỉ huy đến bao vây căn cứ Cầu An Hạ. Nghĩa quân chủ động đánh mở ra ba mặt. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng và vũ khí quá chênh lệch, dù đã kháng cự quyết liệt nhưng cuối cùng cũng phải chịu thiệt hại nặng ở ấp Bình Thủy, Ba Hầm và Bình Điền. Nguyễn Văn Tài, một trong số những thủ lĩnh nghĩa quân bị bắt. Căn cứ địa kháng chiến bị san bằng. Nghĩa quân phải rút lên Tây Ninh. Từ ngày 2 đến ngày 11-7-1866, liên quân Việt - Khơme còn chạm trán với quân Pháp trong các trận: Trà Vang (Tây Ninh), Củ Chi, Hóc Môn, Trảng Bàng, Long Trì (Tân An), Bình Thới)…
Sau một thời gian khá dài chữa trị vết thương, Thiên Hộ Dương dần bình phục nhưng sức khỏe của ông đã giảm sút nhiều, không được như trước nữa. Ông và thuộc tín bắt đầu lần mò theo dọc sông Vàm Nao nghe ngóng và tìm hiểu tình hình. Lúc này, Thiên Hộ Dương lấy tên mới là Võ Qua. Truyền khẩu riết rồi Qua thành Quá, nên cuối cùng gọi là Võ Quá. Võ Quá cũng đã ghé Lý Nhơn và Gò Công. Tình hình cho Võ Quá thấy phong trào kháng chiến ở ba tỉnh miền Đông, trước sự đàn áp của địch đã lắng hẳn xuống. Các anh hùng hào kiệt từng là chiến hữu của ông, số thì ngã xuống, số bị cầm tù, số còn lại thì đã dồn sang 3 tỉnh miền Tây tiếp tục chống Pháp. Ở ba tỉnh miền Đông, bộ máy cai trị của Pháp đã được củng cố ngày một mạnh. Như vậy việc gầy dựng lại từ đầu một đội ngũ nghĩa quân đủ mạnh để nổi dậy khởi nghĩa một lần nữa là điều vô vọng, nếu may lắm không bị tiêu diệt ngay từ trứng nước thì trước sau gì cũng lại chuốc lấy thất bại. Thời thế đã đổi thay! Không còn cách nào khác, Võ Quá quyết định trở về quê hương bản quán, muốn thế trước hết là phải ra Bình Thuận. Ông cùng thuộc tín theo thuyền dọc sông Vàm Nao ra biển…
Bàu Trắng, Mũi Né, Bình Thuận là nơi mà ngày xưa dân đi biển từ Ngũ Quảng vào và từ Nam Kỳ - Lục Tỉnh ra thường dùng làm nơi cặp thuyền (đóng vai trò như một trạm trung chuyển). Võ Quá và thuộc tín đặt bàn chân đầu tiên lên đất Bình Thuận khi theo thuyền từ Nam ra chính là tại chốn này.
Vừa bước chân lên bờ là hai người khẩn trương đến ngay một địa chỉ ở Hòa Đa nhưng đã không gặp được người họ Trương nọ (có thể lúc đó người họ Trương nọ đang ở đâu đó trên chặng đường Bình Thuận - Nghệ An để thực hiện cái công việc ân tình mà bạn bè đã gửi gắm!). Võ Quá dò hỏi người xung quanh và chỉ biết mơ hồ rằng: cũng chưa lâu lắm, có một người phụ nữ bồng một đứa con khoảng 4 tuổi ra đây, được mấy bữa thì cô ta đi đâu không rõ, hình như là ra Trung, đến Quảng Ngãi, còn người họ Trương thì nghe nói có việc ở quê phải về gấp và chưa thấy trở lại. Cho rằng nấn ná ở lại chỉ vô ích và nhất là dễ lộ chuyện nên Võ Quá quyết định bỏ đi. Từ đây, Võ Quá và thuộc tín - đồng thời cũng là bạn chiến hữu chí cốt, sau khi giao ước và hứa hẹn với nhau xong thì chia tay, tìm đường, kẻ trước người sau, ai về quê nấy.
Võ Quá không về Quảng Ngãi mà ghé Bình Định, về tổ quán ở An Nhơn tá túc. Lúc này Võ Quá đã chuyển thành Võ Bông. Sau bao nhiêu năm xa cách, Võ Duy Lập, mà bây giờ là Võ Bông đã đoàn tụ với vợ con tại đây. Võ Bông đã kể cho vợ nghe nhiều điều bí mật trong quãng đời hoạt động tại Nam Kỳ của ông, kể cả việc ông có đứa con riêng mà không biết đang ở phương trời nào. Để phù hợp với cái tên hiện tại là Võ Bông, ông đã cải lại họ hai người con trai của mình, bỏ chữ Duy đi, để rồi: Võ Duy Cung thành Võ Tường và Võ Duy Phụng thành Võ Ký, thêm Nguyễn Duy Sác thành Võ Sác, Võ Châu thành Võ Thị Thắm. Sau này ông còn có thêm 1 người con gái nữa, được đặt tên là Võ Thị Lan…
Ẩn mình ở Bình Định một thời gian, Võ Bông trở về Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, nơi chôn nhau cắt rốn của ông và cũng là nơi chôn cất di hài người cha của ông. Trước đó khá lâu, vợ con ông đã về đó để lo nhang khói mồ mả, thờ phượng cho người cha tiết nghĩa - Tổng trấn Võ Duy Ninh (hiện nay mộ phần vị Tổng trấn này vẫn được bảo lưu tại làng Đại An, xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi). Về đến quê cha thì cái tên Võ Bông đã hóa thành Võ Sen. Nếu ghép hai cái tên đó lại thì sẽ có được một… Bông - Sen. Ở Đồng Tháp Mười xưa kia, dù là bao la mùa khô hay mênh mông mùa nước nổi, bao giờ cũng hiển hiện sen và tràm. Đặc biệt, hoa sen đã trở thành biểu tượng bất tử về sự thuần khiết của tâm hồn con người chân phác và của đất trời hoang vắng ở xứ sở đó. Chắc hẳn trong lòng ông Thiên Hộ không bao giờ nguôi ngoai được nỗi niềm thương nhớ về một vùng dung dị mà khoáng đạt, hiền lành mà kiên trung, nơi ông đã từng lăn lộn, vẫy vùng, anh dũng chiến đấu chống quân xâm lược để trả thù cho cha, báo đền cho nước, cùng với các chiến hữu và những “dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ”; nơi mà ông đã có thêm một mối tình phu - phụ với người thiếu nữ có tên là Sen (hoặc cũng có thể là Bông). Như là thể hiện của sự cảm ứng huyền linh, sau này, trong văn học sử Việt Nam có hai câu thơ được đặt vào vị trí rất trang trọng, ngầm mách bảo rằng có thể coi hai cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất và lần thứ hai là một cuộc kháng chiến duy nhất có tính truyền đời truyền kiếp rất thiêng liêng mà cũng thật lạ lùng:
“Tháp Mười đẹp nhất Bông Sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
(Kể thêm: ngôi làng ôm ấp quãng đời thơ ấu của Hồ Chí Minh cũng có tên là Sen. Hòa Đa, thủ phủ của tỉnh Bình Thuận có tên xưa kia là  Liên Thành (nghĩa là: thành hoa sen). Ở đây, tháng 3-1906 xuất hiện tổ chức Liên Thành Thương quán, hoạt động kinh tế nhằm gây quỹ cho phong trào Duy Tân; tháng 5-1906 xuất hiện Liên Thành Thư xã nhằm truyền bá sách báo có nội dung yêu nước, mở mang dân trí. Đó là kết quả vận động của các nhà yêu nước Bình Thuận, trong đó hạt nhân gồm Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quí Anh (hai người con của Nguyễn Thông), Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang và một số người khác. Xa xưa hơn nữa, ít ra cũng cả ngàn năm, ngay trong kinh thành Thăng Long đã xuất hiện biểu tượng trác tuyệt về hoa sen: Chùa Một Cột. Phải chăng đó là kiến tạo từ hồi ức đã khắc tạc không thể phai mờ trong tâm trí dân tộc Việt về một thời xa xưa hơn nữa, khi mà một vùng rộng lớn bao gồm cả Thăng Long còn mênh mang nước nổi với bát ngát những đầm sen, và phải chăng bông sen đã là đặc trưng của những vùng duyên hải nước ngập lầy lội tràn lan?
Và phải chăng hoa sen cũng đã từng được coi là một biểu tượng của sự thơm tho, thanh khiết của nền văn minh sông Hồng thời cổ đại?)
Võ Sen về sinh quán nhưng không về làng Đại An sum họp với vợ con mà về ở đâu đó tại Chợ Chùa. Thiên Hộ Nguyễn Duy Dương - Võ Duy Lập, vĩnh viễn mai danh ẩn tích. Trong phả đồ có ghi ông mất vào năm 1923.
Sau này, trên bước đường hành phương nam, phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (còn có tên là Nguyễn Sinh Huy) có ghé lần lượt qua Nghĩa Hành - Quảng Ngãi thăm quê cha đất tổ, ghé Hòa Đa - Bình Thuận, nơi xưa kia đã ly biệt mẹ mình. Đích đến cuối cùng của ông là Cao Lãnh - Đồng Tháp. Ông hoạt động yêu nước và hành nghề bốc thuốc ở đây cho đến cuối đời. Phải chăng Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đến sống ở Cao Lãnh - Đồng Tháp còn với mục đích sâu xa là muốn về quê mẹ để tìm hiểu tung tích người mẹ đồng thời cũng thăm lại nơi người cha của mình đã khai hoang lập ấp, về chiến trường xưa để tìm hiểu cuộc chiến đấu chống Pháp của người cha mà ông nghĩ rằng đã hy sinh anh dũng tại đó?
Ngày nay, bên đường Phạm Hữu Lầu, gần cầu Cái Tôm, cách trung tâm thị xã Cao Lãnh 1 km có khuôn viên rộng khoảng 1 mẫu, đó chính là khu mộ của Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân phụ của vị đại anh hùng Hồ Chí Minh.
***
Đứng đây, trên cái vị thế cao vút và lồng lộng gió ngàn này, dự định ban đầu của chúng ta là thực hiện chương trình “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát” thật xúc tích, thật ngắn gọn như một chương trình “mini” với đôi ba bài ngợi ca Thăng Long - Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn vật của nước Việt Nam trường tồn mà chúng ta vô vàn yêu mến và xiết bao tự hào, như là một lời chào tạm biệt đối với Tổ Quốc trước khi bước vào một cuộc bôn ba vô tiền khoáng hậu (có lẽ thế!) mà chúng ta đã sửa soạn xong hành trang. Nào ngờ cái chương trình chia tay dự định là “ngắn thôi” ấy lại dàn trải thậm thượt đến tận lúc này cũng chưa dứt, đến mất luôn cả cảm giác về sự trôi của thời gian. Chúng ta đã không thể khẳng định được thời gian trôi qua nhanh hay chậm và đã bao lâu rồi: một năm hay mười năm, một thế kỷ hay đã vài thiên niên kỷ? Hay thời gian đã đứng lại từ lâu vì quanh chúng ta lúc nào cũng như lúc nào, luôn biêng biếc màu xanh của núi rừng, của trời biển? Cũng có thể cả thời gian lẫn chúng ta cùng vùn vụt trôi đi để chúng ta chỉ có thể cảm giác được hiện tại mà thôi?...
Thú thực, cũng như mọi con dân hết mực yêu thương quê hương, đất nước mình, chúng ta không bao giờ muốn rời xa Tổ Quốc. Nhưng cuộc hành trình vĩ đại (đi tìm cái gì đó) còn quá nhiều dang dở nên buộc chúng ta không còn cách nào khác là đành phải chia lìa, tạm biệt Tổ Quốc một thời gian. Tuy nhiên, trong cuộc bôn ba muôn dặm, không ai có thể biết được điều gì đang chờ đợi phía trước. Nếu chẳng may gặp rủi ro, có thể vĩnh viễn chúng ta không còn bao giờ gặp lại Tổ Quốc mình nữa. Chính điều lo lắng này đã làm cho cuộc chia tay trở nên sướt mướt, da diết, lê thê giãi bày và tràng giang đại hải kể lể. Hình như những cuộc chia ly thấm đẫm tình yêu thương bao giờ cũng kéo dài, khó dứt. Dù sao thì chúng ta đã có một cuộc chia ly dài lâu nhất thế giới tự cổ chí kim.
Dài thế mà cũng chưa nói cạn được nỗi niềm. Cũng là một điều lạ: muốn kể về lịch sử Thăng Long - Hà Nội thì không thể không kể về lịch sử dựng nước và giữ nước Việt Nam và ngược lại, không thể hiểu được lịch sử Việt Nam nếu không kể ra lịch sử tồn tại của Thăng Long - Hà Nội. Rốt cuộc, kể chuyện lịch sử Thăng Long - Hà Nội thì phải kể luôn cả lịch sử Việt Nam, muốn kể lịch sử Việt Nam thì không thể không kể đến quá trình đấu tranh chế ngự thiên nhiên, chống cự giặc ngoại xâm của dân tộc Việt, mà quá trình đó lại được bắt đầu bằng công cuộc trị thủy và đánh tan giặc Ân ở khu vực Cổ Loa, vùng được coi là “tổ quán” của Thăng Long - Hà Nội. Muốn kể về cuộc đấu tranh “ngàn đời” chống ngoại xâm của dân tộc Việt mà không kể đến lịch sử chiến tranh thế giới hoặc ngược lại thì thật là phiến diện, gây khó hiểu và thậm chí là không thể… kể được. Đó cũng là lý do khiến chúng ta phải đứng chôn chân đến tê cứng trên đỉnh Trường Sơn đại ngàn này.
Chúng ta thanh minh như thế và… thôi, không thanh minh tiếp nữa, kẻo lại làm cho cái sự lỡ lê thê lại càng… lê thê thêm…
Dù sao thì cũng cố lên chút nữa, nói vắn tắt vài điều nữa để kết thúc câu chuyện cho có đầu đuôi mà yên tâm, thỏa nguyện lên đường, mở cuộc hành trình mới. Cuộc hành trình mà chúng ta cho là quái lạ nhất trong tất cả các cuộc hành trình quái lạ của mình đi đến (thực ra là trở về) với Tự Nhiên Vĩ Đại (đồng thời cũng là Vi Tiểu).
Dễ chừng cũng ngót 30 năm rồi, chúng ta chưa một lần trở lại thăm thủ đô Hà Nội. Nhờ đã dồi dào tiền bạc, sẵn đá của núi non, sẵn đất cát của sông nước mà Hà Nội, tuy không phình nhanh như thành phố Hồ Chí Minh, nhưng chắc bây giờ, với công cuộc bê tông hóa, cũng đã rộng lắm, to lắm và cao lắm. Qui hoạch mở rộng Hà Nội vừa được “nhất trí thông qua” chắc sẽ làm cho Hà Nội trở nên đồ sộ “vật vã” hơn bao giờ hết. Rồi đây, thủ đô Hà Nội mới sẽ là hợp nhất Hà Nội hiện nay với tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung (huyện Lương Sơn, Hòa Bình), sẽ có 334.470 ha diện tích tự nhiên và 6.232.940 nhân khẩu. Từ chỗ chỉ có 14, thành phố Hà Nội sẽ có 29 đơn vị hành chính cấp huyện. Trong đó có 9 quận thuộc nội thành Hà Nội cũ, 2 thành phố (Hà Đông, Sơn Tây) và 18 huyện.
Trên báo “Người Lao Động” ra ngày 4-8-2008, chúng ta đọc thấy bài báo nhỏ của tác giả B. T. B. Chúng ta trích đoạn:
“Theo Thông tấn xã Việt Nam, công ty Arata Irozaki kết hợp với Metropolitan Architecture đã đề xuất ý tưởng từ thành phố Thủ đô đến thành phố lớn đa cực và mô hình phát triển Hà Nội là thành phố đa cực phát triển phát triển bền vững. Theo nhà thầu thì mô hình phát triển Hà Nội là tối ưu với mối liên kết của ba hệ thống: giao thông, thông tin liên lạc và các tuyến đường chính (đồng thời là hành lang kinh tế kỹ thuật sẽ tạo ra một thành phố hiện đại của thế kỉ XXI). Công ty Posco E&C liên doanh với Công ty Jina Architect, Petkins Eastman nhấn mạnh Hà Nội cần có hành lang xanh với mật độ 60%, đất xây dựng đô thị nằm xen kẽ hành lang xanh và được phân bố tương đối đều phụ thuộc vào tăng trưởng của từng thời kỳ cụ thể, đến năm 2030, Hà Nội sẽ là thủ đô phát triển bền vững vào bậc nhất thế giới. Công ty RTKL đề xuất ý tưởng xây dựng mô hình thành phố bền vững: mô hình phát triển tổng hợp, trong đó có sự kết hợp giữa các chức năng quản lý nhà nước với yếu tố văn hóa xã hội, phát triển hạ tầng giao thông, phát triển đất giúp thành phố trở nên năng động, mạnh mẽ…”.
Nghe các bác nhà thầu nước ngoài “tán” mà mát lòng mát dạ: Hà Nội nếu để cho các bác thầu xây dựng thì chỉ có hiện đại và bền vững bậc nhất thế giới mà thôi. Rồi đây, thay cho những làng hoa, làng nghề truyền thống, những thửa rau xanh là những tòa nhà chọc trời nguy nga, những công viên “thượng uyển” được tỉa xén sắc sảo đến từng chi tiết và cũng thật tráng lệ. Các bác nông dân nhà ta tha hồ mà tít mắt, trầm trồ nhé!
Nhưng thôi, cũng không nên quá lo lắng kiểu lo “con bò trắng răng” làm gì. Tàn phá và dựng xây là hai mặt của một quá trình biến đổi có tính liên tục và tất yếu. Thăng Long - Hà Nội không thể không biến đổi theo thời gian dù có làm cho nó bền vững đến mấy chăng nữa. Nó biến đổi theo hướng nào là tùy thuộc vào sự biến đổi của môi trường chứa nó, trong đó có bàn tay con người và bộ não của con người hiểu như thế nào về khái niệm “dựng xây” cũng như “tàn phá”. Đó cũng chính là số phận có tính chất định mệnh của Thăng Long - Hà Nội, và nếu Thăng Long - Hà Nội vẫn là nơi còn long mạch tỏa ra khí thiêng sông núi, vẫn là vùng địa linh hun đúc nên nhân kiệt thì trước sau gì nó cũng biến đổi phù hợp với ước nguyện của Đại Chúng, vẫn trở về với biểu tượng hồn hậu, khiêm cung và kiên trinh của linh hồn dân tộc Việt.
Ai ơi, hãy đừng để cho những thế hệ người Hà Nội mai sau cũng lại như Bà Huyện Thanh Quan, cách nay hàng trăm năm, trong thời Pháp thuộc xô bồ xô bộn, đã phải thổn thức trong bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của mình:
“Tạo hóa gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”.
Tổ quốc Việt Nam là nơi trú ngụ của dân tộc Việt. Khi đã làm ăn no đủ rồi, sung túc rồi thì dân tộc Việt có quyền được xây dựng nơi trú ngụ của mình khang trang hơn, tiện nghi hơn. Đó là lẽ tự nhiên và cũng là điều hoàn toàn chính đáng. Chỉ có điều cần nhấn mạnh ở đây là dựng xây đến mức độ nào thì gọi là vừa đủ, như thế nào thì gọi là phù hợp, ưu tiên theo hướng nào thì gọi là tối ưu. Xây dựng một cách mù quáng (chưa nói đến vì mục đích mưu cầu đen tối), xây dựng để thỏa niềm kiêu hãnh, để cho “bằng chị, bằng em”, xây dựng lấn hết cả đất đai, ruộng đồng, sông núi… coi chừng lại hóa ra phá hoại, mắc tội với hậu thế.
Hãy bình tâm mà nhìn nhận lại: nước Việt Nam đang đứng trước nạn thiên nhiên xâm lăng mới: biển dâng, và dân tộc Việt muốn sống còn thì không thể không đứng lên đấu tranh trị thủy. Đó cũng chính là một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện mà dân tộc Việt phải chuẩn bị lực lượng và thậm chí là phải bắt đầu tiến hành ngay từ ngày hôm nay.
Theo tính toán, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam sẽ tăng lên 3oC và mực nước biển sẽ dâng lên 1 m vào năm 2100. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (năm 2007), Việt Nam là một trong năm nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Nếu mực nước biển dâng lên 1 m thì sẽ có 40% dân số ảnh hưởng trực tiếp, khoảng 90% diện tích trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng bị ngập mặn hoàn toàn, 4,4% lãnh thổ Việt Nam sẽ bị nhấn chìm vĩnh viễn (hoặc đến thời kỳ biển thoái hàng ngàn năm nữa), đồng nghĩa với khoảng 20% xã trên cả nước, 9.200 km đường bộ bị xóa sổ… Nước biển dâng 1 m sẽ có 1.668 km2 đất thuộc đồng bằng sông Hồng bị ngập.
Theo các nhà nghiên cứu thì đối với thành phố Đà Nẵng, trong 30 năm nữa, khi mực nước biển dâng lên 0,3 m, sẽ có 30.000 hộ dân với hơn 170.000 người ở 18 xã phường ven biển mất nhà ở…
Những biểu hiện của hiểm họa tương lai đó đã bắt đầu bộc lộ từ hôm nay. Hiện nay ở nhiều địa phương Nam Bộ đã xuất hiện hiện tượng triều cường dâng cao phá vỡ đê phòng hộ, biển lấn chồm cả qua đê, tràn vào trong mà người dân gọi là “biển đuổi”. Chẳng hạn ở tỉnh Sóc Trăng thời gian gần đây biển dâng cao bất thường. Năm 2008, tại các huyện ven biển như Vĩnh Châu, Cù Lao Dung… tình trạng biển “nuốt chửng” đất liền đã đến mức báo động… Theo số liệu của chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây - Nam Bộ, những năm gần đây, diện tích đất trồng lúa ở khu vực này đã có xu hướng suy giảm; năm 2000 diện tích trồng lúa của vùng là trên 3,94 triệu ha, đến năm 2006 chỉ còn 3,77 triệu ha. Mặt khác, tính đa dạng sinh học ở những khu rừng ngập mặn ven biển; những mô hình nuôi, trồng thủy sản cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi biển dâng.
Trong nội dung tờ trình Thủ tướng Chính phủ của Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn về chiến lược phát triển thủy lợi đến năm 2020 có nhấn mạnh: “Đến năm 2070, mực nước biển có thể dâng cao lên 0,9 m so với hiện nay; 0,5 triệu ha đất của Đồng bằng sông Hồng và 1,5 - 2,6 triệu ha đất của Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập bởi thủy triều nếu không có hệ thống công trình bảo vệ”.
Có đúng không nếu ngay từ bây giờ, chúng ta nên điều chỉnh lại các dự án xây dựng, chuyển hướng ưu tiên bê tông hóa vào việc củng cố xây mới hệ thống đê điều, đưa bê tông hóa ra các vùng duyên hải chống sự xâm lấn của nước biển, bảo vệ các vựa lúa của Việt Nam trước nạn biển dâng?
Với truyền thống trị thủy hàng ngàn năm của mình và nếu nghiêm túc dự trù từ sớm, chắc chắn dân tộc Việt sẽ thành công trong việc chống nước mặn xâm lăng trong kỳ biển dâng này và đồng thời qua đó sẽ tạo nên được sự phồn thịnh vượt bậc và lâu bền. Một trong những yếu tố sẽ làm nên sự thắng lợi của công cuộc đấu tranh chống biển lấn là nó xảy ra trong điều kiện tình hình chính trị thế giới đã có nhiều lắng dịu.
Dựa trên những quan niệm cực đoan, giáo điều về kinh tế - xã hội, Liên Bang Xô Viết đã không chịu nổi những căng thẳng nảy sinh trong lòng nó, đã tự nhiên tan vỡ (Goócbachốp và Enxin chỉ là hai nhân vật thừa hành của sự biến đổi tất yếu ấy của xã hội). Liên Bang Xô Viết tan rã thành các quốc gia độc lập và tất cả các quốc gia này cũng như tất cả các nước làm hình thành nên hệ thống xã hội chủ nghĩa châu Âu đều từ bỏ con đường Xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc và Việt Nam tuy không nói từ bỏ nhưng để vực dậy nền kinh tế, tránh đổ vỡ, đã đổi mới ngày một triệt để cách thức điều hành nền kinh tế theo hướng giống với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên đó không phải là kết quả đấu tranh chống cộng sản thắng lợi của hệ thống các nước phe Tư bản chủ nghĩa. Bản thân quan niệm Tư bản chủ nghĩa về kinh tế - xã hội cũng có những cực đoan và giáo điều của nó. Chính vì vậy mà ở các nước tư bản chủ nghĩa luôn xảy ra khủng hoảng kinh tế như một căn bệnh mãn tính, chỉ có thể chữa trị như một giải pháp tình thế mà chưa có bài thuốc chữa trị rốt ráo, tổng quát. Nhờ có các cuộc khủng hoảng ấy, đồng thời trước tình hình thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai đã có nhiều biến đổi, nhất là phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa dâng cao mạnh mẽ; mà các nhà nghiên cứu kinh tế tư sản đã đưa ra nhiều học thuyết để nỗ lực phân tích nguyên nhân cũng như tìm biện pháp khắc phục nhằm chấm dứt suy thoái kinh tế. Xu thế giải quyết khủng hoảng của các nhà kinh tế tư sản là trước sau gì cũng phải hướng tới khống chế cạnh tranh mù quáng ở tầm vĩ mô, khống chế độc quyền, tăng khả năng điều tiết vĩ mô của chính quyền nhà nước bằng biện pháp kinh tế và cả bằng mệnh lệnh trong trường hợp cần thiết, nghĩa là tăng cường sự quản lý điều hành tập trung cho nhà nước. Như thế, từ một nền kinh tế tự do cạnh tranh mù quáng, qua thời gian, để sống còn, nền kinh tế đó cũng dần phải giảm bớt tính tự do mù quáng của nó và trong chừng mực nhất định, tăng tính kế hoạch và chỉ đạo tập trung nhà nước. Rõ ràng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã mặc nhiên ngày một nhích đến gần hơn với phương thức điều hành kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Vì như chúng ta biết, đặc trưng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là có tính kế hoạch cao độ, tập trung quản lý điều hành trong tay nhà nước (một cách duy ý chí, bất chấp qui luật cung cầu).
Ngày nay, hầu hết và có thể là ở tất cả các nước, dù mang nhãn mác nào, tư sản hay cộng sản, tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa đều có nền kinh tế mang bản chất na ná nhau và nếu dựa trên lập trường của chủ nghĩa cộng sản “chính thống” thì đều là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, không thể chối cãi được dù có biện minh giỏi cách mấy đi chăng nữa.
Các nền kinh tế đã như thế thì các quan niệm chính trị cũng bớt hẳn đối đầu. Vấn đề nóng bỏng trước đây, sự đối đầu đến mức tưởng như một mất một còn giữa cộng sản và tư sản, giữa Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa, đến đây, đã không còn đặt ra (công khai) nữa.
Nước Nga, kế thừa cái nền tảng đạo đức vô sản đẹp đẽ của Liên Bang Xô Viết, đang trở thành mẫu mực trong quan hệ quốc tế. Nước Mỹ năm 2009, sau khi Barack Obama, người Mỹ da đen đầu tiên lên làm tổng thống, đã có những biến đổi làm yên lòng thế giới: hữu nghị hơn, cởi mở hơn, cao thượng hơn.
Có một câu chuyện thú vị liên quan đến Tổng thống Obama. Chính phủ mới của Mỹ thực hiện các chính sách như: nắm giữ phần lớn cổ phiếu của các ngân hàng, điều khiển ngành công nghiệp ô tô, tìm cách quốc hữu hóa lĩnh vực chăm sóc y tế… đã làm cho một số nghị sĩ đảng Cộng Hòa công khai chỉ trích tổng thống Obama đang thực hiện những chính sách mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này ngay lập tức diễn ra trên khắp nước Mỹ. Công ty truyền thông chuyên thực hiện các cuộc thăm dò dư luận có uy tín của nước Mỹ là Rasmussen Reports lập tức quyết định tiến hành cuộc thăm dò ý kiến có qui mô toàn quốc với câu hỏi: “Giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, hệ thống nào tốt hơn?”. Kết quả công bố ngày 9-4-2009 cho thấy chỉ có 53% người Mỹ trưởng thành tin rằng chủ nghĩa tư bản tốt hơn; 20% tin rằng chủ nghĩa xã hội tốt hơn và 27% phân vân không biết chọn hệ thống nào. Đây là kết quả gây ngạc nhiên cho chính những người thực hiện, bởi trong cuộc khảo sát cũng do họ thực hiện vào cuối tháng 12-2008, có đến 70% người Mỹ trưởng thành ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do (một cách hiểu khác về chủ nghĩa tư bản). Mặc dù kết quả cho thấy đa số người Mỹ vẫn ủng hộ chủ nghĩa tư bản, nhưng 53% là một tỷ lệ được cho là quá thấp trong một quốc gia luôn coi chủ nghĩa tư bản là chìa khóa phát triển để được như Mỹ ngày nay.
Câu chuyện kể cũng thú vị đấy chứ?
Có thể đoán rằng; thế giới đang bước vào thời kỳ hòa dịu và hợp tác hòa bình, các nước dần một xích lại gần nhau hơn nữa và cùng chung sống trong bầu không khí bình đẳng, tương trợ, và tôn trọng lẫn nhau. Xu thế này chắc chắn cũng làm cho chủ nghĩa khủng bố lụi tàn dần.
Cuối cùng, chúng ta hy vọng rằng trong tương lai không xa, trên thế giới sẽ không còn bất cứ loại vũ khí hóa học nào, bất cứ thứ vũ khí hạt nhân nào. Nhưng trước hết, vũ khí hạt nhân, cái biểu tượng về trí tuệ siêu việt đáng tự hào và đồng thời cũng là biểu tượng mù quáng và độc ác đáng hổ thẹn của loài người phải bị tiêu hủy ngay lập tức và không có quyền được xuất hiện trở lại.
Tuy nhiên, cái tương lai không xa ấy chắc vẫn còn… xa vời lắm! Vào cuối tháng 5-2011, trong một chuyến công du qua nước Anh, tổng thống Obama đã phát biểu trước hai viện Quốc hội Anh: “Mỹ, Anh đang bước vào một giai đoạn quan trọng mới và ngày nay là thời đại mà Mỹ và Châu Âu phải giữ vai trò lãnh đạo thế giới”.
Lời phát biểu gây sốc đó không hề làm chúng ta ngạc nhiên. Obama vẫn chưa thoát được lối tư duy kẻ cả, hợm hĩnh thường thấy ở những chính khách “tai to mặt lớn” của những nước lớn!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét