Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 1

                                           THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG

                                                                                                    ĐẠI CHÚNG

                                                         _________________________

                                                        "Lời quê chắp nhặt dông dài
                                        Mua vui cũng được một vài trống canh"

                                                                                         Nguyễn Du




LỜI PHÂN TRẦN

Độc giả thân mến, xin thưa ngay rằng tác giả đích thực của bộ sách không phải là tôi. Tôi chỉ có công sắp xếp lại cho hợp lý từ “đống” ghi chép như núi của một người bạn, sửa lại lỗi chính tả chằng chịt, trong đó, đặt lại các dấu ngắt câu cho “dễ thở” hơn và đem đi “lùng sục” nhà xuất bản.
Bạn tôi, cái anh chàng viết câu chuyện này là một người có lối suy nghĩ hết sức quái lạ. Điều này rồi độc giả sẽ nhận ra thôi. Ở đây, tôi chỉ xin nói rằng lối suy nghĩ quái lạ ấy bộc lộ ngay từ khi bạn tôi còn ở tuổi niên thiếu.
Tôi và bạn tôi quen nhau từ thời sơ sử của mỗi đời người - thời phổ thông trung học. Hồi đó, bạn tôi là một đứa học khá và tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè, nhất là luôn tạo điều kiện cho tôi “quay cóp” hết sức hiệu quả trong những lần làm bài kiểm tra. Dù vậy, trong đám bạn của tôi hồi ấy, tôi hay nổi cáu với nó nhất chỉ vì nó là một đứa hay đưa ra những câu đố “dở hơi” và nhất là hay cãi, đúng sai gì cũng cãi, cãi lấy được, cãi chày cãi cối đến gàn rở. Không riêng gì tôi, bạn bè ai cũng ngao ngán mỗi khi phải tranh luận với nó. Còn nhớ có một lần bạn tôi đố cả bọn: “Một nhân với một là mấy?”. Cả bọn phì cười! Có một đứa nói tọet: “Mày man mẹ nó rồi, bằng một chứ mấy!”. Bạn tôi cũng cười: “Không đúng! Một nhân với một phải là một bình phương”. Biết tỏng là sắp “đụng” phải “Thầy Cãi”, chúng tôi đánh trống lảng sang chuyện khác.
Thời gian trôi đi,
“Chúng tôi lớn lên mỗi người một ngả
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
Kẻ nắng mưa cày cuốc ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến”
(Trích trong “Nhớ con sông quê hương” của Tế Hanh)
Cuối kỳ phổ thông, chưa kịp thi tốt nghiệp, tôi và một số bạn cùng lớp trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, lên đường "đền nợ nước". Chàng “Thầy Cãi” nằm trong đám lọt sổ, ở lại. Ngày đưa tiễn, mấy đứa bạn gái thì sụt sịt, đám bạn trai thì cười nói động viên. Chúng tôi, những kẻ ra trận trong cái khí thế hừng hực chung của cả dân tộc thời ấy, cảm thấy mình mạnh mẽ hẳn lên, rạo rực, dù rằng đâu đó cũng có thoảng một nỗi buồn rất nhẹ, rất sâu.
Khi đã yên vị trên xe, tôi thò đầu ra ngoài ô cửa thì bắt gặp ánh mắt của “Thầy Cãi”. Ánh mắt rất sáng, lặng thinh, bất biến. Tôi hét về phía nó:
- Chúng mình đi nhá! Một xanh cỏ, hai đỏ ngực! (Câu nói rất hay của tuổi trẻ thời Chống Mỹ cứu nước)
“Thầy Cãi” như giật mình, bước vội đến giơ tay, vừa cười vừa nói to:
- Nói thế không đúng! Không được xanh cỏ, không cần đỏ ngực. Phải chiến thắng mà trở về! Chúng mày phải quay về để cãi với tao đấy! Còn một câu đố nữa …
- Lại hai nhân với hai là mấy chứ gì? - Đám bạn ngồi cạnh tôi hô hố .
Cả bọn cười ồ ! ..
Xe rùng mình,
Máy nổ,
Chúng tôi đi!
Chúng tôi tham chiến những trận đầu tiên đúng vào thời kỳ khốc liệt gọi là “Mùa hè đỏ lửa” tại một trong những chiến trường ác liệt nhất: Quảng Trị. Chết nhiều! Lớp tôi khi đi gần chục người, khi về còn chưa tới một nửa. Thật đau thương!
Ôi chiến tranh! … Nhưng thôi, đó không phải là câu chuyện của riêng tôi và bạn tôi cũng đã kể rất nhiều trong quyển sách này rồi. Tôi chỉ xin nói thêm rằng những người bạn đã ngã xuống của tôi, dù có thể vô danh, không được phong tặng một danh hiệu anh hùng dũng sĩ nào thì đối với tôi, họ vẫn là những anh hùng đích thực, vì tôi đã chứng kiến sự dũng cảm của họ, sự dung dị của họ khi “đền nợ nước” và vì họ đã là những đứa con trung hiếu của một dân tộc anh hùng.
Tôi, may mắn hơn, đã đến được ngày Chiến Thắng. Đó là ngày cảm động nhất, tự hào nhất và tưng bừng nhất của đại đa số nhân dân Việt Nam mà dễ gì một đất nước khác có được: thực sự thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang ngót một thế kỷ; đánh tan được hai thế lực xâm lược hùng mạnh bậc nhất thế giới (chưa kể đám chư hầu); chấm dứt được cuộc chiến tranh tàn phá dai dẳng và thuộc loại tàn khốc nhất thế giới từ xưa đến nay; bảo toàn được lãnh thổ và thống nhất được non sông, trở thành một đất nước độc lập tự do.
Nhưng niềm vui lớn ấy rồi cũng mau chóng qua đi, nhường chỗ cho nỗi ưu tư, trăn trở trước những khó khăn quá đỗi của cuộc sống đời thường. Mơ ước và hứa hẹn, quyết tâm và nỗ lực nhưng mức sống thì vẫn xơ xác, đói có lẽ ít thôi nhưng khổ quá! Nhiều người cho là tại cuộc chiến tranh vừa qua. Có lẽ là như thế! Nhưng có một biển Đông mênh mông mà thiếu muối; có hai cánh đồng bao la thẳng cánh cò bay mà thiếu gạo. Và sự thiếu ấy kéo dài quá lâu (hơn mười năm chứ không ít!) thì tôi không hiểu nổi.
Đó là một thời kỳ đầy rẫy những khó khăn và lạ lùng. Tôi thấy vậy thôi chứ thú thực, tôi như một kẻ ngoài cuộc. Sau chiến tranh, tôi xuất ngũ, tiếp tục học và về làm tại một công ty vận tải biển của thành phố Hồ Chí Minh, trở thành thủy thủ tàu viễn dương. Ai mà không biết thời ấy được đi tàu viễn dương là “hốt bạc”, nền kinh tế bao cấp với vật tư nguyên liệu là độc quyền quản lý của Nhà nước cùng với nạn ngăn sông cấm chợ đã làm cho “chợ đỏ” khan hiếm đủ thứ còn “chợ đen” lại có đủ thứ nhưng quá đắt. Chính vì thế mà trong cái nghèo đói bao la cũng xuất hiện không hiếm phè phỡn. Và cũng vì thế mà bất cứ thứ gì tôi tha lôi từ ngoài về được, kể cả đồ phế thải, đồ xài lại (second-hand), từ cái máy khâu lỗi thời đến cục xà phòng, nói của đáng tội, đều trở thành vàng ròng. Tôi sống không được như vua chúa nhưng sung túc, mua nhà mua đất và tích lũy …
***
Có đến gần chục đứa bạn hồi học phổ thông của tôi ở Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi thường tạo dịp gặp nhau để hàn huyên vui vẻ.
Một lần (cách đây mười bảy mười tám năm!), tôi tổ chức nấu nướng tại nhà mời đám bạn ấy đến. Hôm đó mọi người đến đủ cả. Điều bất ngờ nhất là sự xuất hiện của “Thầy Cãi”. Thế là sau hai mươi năm bặt tin, chúng tôi lại gặp nhau, tay bắt mặt mừng. Thật là vui!
Tôi hỏi “Thầy Cãi”:
- Lâu nay ông ở đâu, làm gì mà bây giờ mới hiện ra thế hả?
“Thầy Cãi” chưa kịp mở miệng thì đứa bạn bên cạnh đã xen vào:
- Tao thấy nó ở dọc đường, lôi về đây đấy! Nó vào Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1979 lận. Thế mà trốn biệt anh em, tệ quá!
- Đâu có đâu! – “Thầy Cãi” cười, gãi gãi đầu.
- Thôi vào bàn đi các bạn ơi! Cây nhà lá vườn, cứ tự nhiên như ở nhà nhé! – Tôi hô hào.
Chúng tôi vừa ăn uống vừa chuyện trò rôm rả, khui bia lốp bốp.
Tôi cầm ly bia cụng với “Thầy Cãi”:
- Bạn đang công tác ở đâu vậy?
“Thầy Cãi” nhấp một ngụm bia, nhìn tôi tủm tỉm:
- Làm nhà báo!
- Tôi nhớ trước đây có đứa nào nói bạn tốt nghiệp phổ thông xong bạn đựơc sang Đông Âu học gì đó về kỹ thuật mà?
- Ừ! Nhưng bây giờ thì làm nhà báo, nghĩa là ở nhà báo vợ, là thất nghiệp ấy mà!
- Ông đừng có đùa! – Tôi ngạc nhiên.
- Thật đấy! Tao nói dối để làm gì? – “Thầy Cãi” trầm xuống.
Lúc này tôi mới nhìn kỹ: bạn tôi mặc chiếc áo công nhân đã bạc màu, sờn cổ, khuôn mặt gầy gò, có lẽ vì uống bia mà xanh mét. Tôi chợt nhận ra, bạn tôi giờ đây ít nóng hẳn, chỉ ngồi cười theo câu chuyện của bạn bè và hút thuốc liên tục, không còn giống ngày xưa, sôi nổi và hiếu thắng, ở đâu có tranh luận là xông vào, ngay lập tức trở thành trung tâm …
Đột nhiên, một đứa bạn ngồi ở cuối bàn nói vang vang:
- Thầy Cãi! Bây giờ mày phải giải thích cho chúng tao nghe một và một bình phương  khác nhau ở chỗ nào?
Tiếng cười rộ lên. Một đứa bạn thêm vào:
- Nó mà không trả lời được, phạt nó ba ly một lúc!
Bàn tiệc đồng thanh:
-Phải đấy!
“Thầy Cãi” ngồi cười, mặt có vẻ rạng rỡ:
- Chuyện ngày xưa ấy mà! Hồi đó chúng mày đặt tên tao là “Thầy Cãi” nên tao luôn cố thể hiện sao cho xứng đáng với tên gọi ấy, thế thôi chứ có gì đâu!
Tiệc tàn, bạn bè tôi lần lượt ra về. Tiếng xe máy nổ dòn giã.
“Thầy Cãi” về sau cùng. Nó dắt xe đạp ra, chào tôi rồi bước đi thoăn thoắt. Nhìn theo chiếc xe đạp cũ xì, trần truồng và đã tuột xích, lòng tôi bỗng nặng trĩu. Tôi vội chạy theo:
- Này, bạn cho tớ xin địa chỉ nhà, lúc nào rỗi tớ đến chơi hoặc có gì còn biết chỗ mà hú hé nhau chứ!
“Thầy Cãi” có vẻ ngần ngừ nhưng rồi cũng viết địa chỉ vào mảnh giấy nhỏ, đưa tôi:
- Nhà trong hẻm ngoằn ngòeo, khó tìm lắm … Mình về nhé! Chào! …
- Chào! …
Tôi nghĩ mãi, không hiểu nổi một người đã từng có một thời trẻ linh họat như thế, được ưu ái học hành đến nơi đến chốn như thế lại lâm vào tình trạng như thế được. Tôi vội điện thọai cho đứa bạn đã dẫn “Thầy Cãi” đến dự tiệc. Nó cũng chẳng biết gì hơn:
- Tao cũng mới gặp nó ở ngoài đường như đã nói thôi, đã kịp hỏi han gì đâu? Khó hiểu nó lắm mày ơi! Hình như nó bị tâm thần thì phải!
 ***
Lấn cấn, gần một tháng sau tôi mới đi tới nhà “Thầy Cãi”. Hẻm sâu và ngoằn ngoèo thật, số nhà nhảy lung tung. Phải quặt quẹo ba bốn lần, hỏi ba người ở đó tôi mới tìm ra. Đó là một căn nhà nhỏ, mái tôn thấp tè và cửa sát đường hẻm. Mãi sau tôi mới biết đựơc bạn tôi ở nhà của cô em vợ theo chồng về Cần Thơ sinh sống, xem như trông coi hộ.
Cửa mở toang, tôi nhìn vào thấy “Thầy Cãi” đang hí hoáy viết gì đó. Nó ngước lên, thấy tôi, có vẻ như giật mình, luống cuống dọn vội đống giấy tờ rồi bước ra:
      - Không ngờ mày mò ra được chỗ tao, giỏi đấy!
Hôm đó chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau tương đối lâu. Và tôi đã hiểu được nguyên nhân đưa đẩy bạn tôi đến chỗ phải nghỉ việc. Đó cũng là một câu chuyện lạ lùng chỉ có thể xảy ra ở thời bao cấp, ở cái thời mà nhiều “đồng chí” giám đốc xí nghiệp đánh giặc rất giỏi nhưng chưa kịp học đến lớp ba, thậm chí là mất tích đâu đó ở hậu phương thời chiến tranh bỗng xuất hiện chễm chệ ở cái thời mà có nơi người ta nói tọet ra rằng: trong một xí nghiệp, phòng kỹ thuật không có thì kỳ mà có thì thừa …
- ...Cái số tao nó thế mày ạ. Vô duyên trên con đường danh lợi! Cũng chẳng cần phải trách đời làm gì! Chỉ buồn một chút là tao đã chẳng làm được chút xíu ích lợi gì cho đất nước khi đất nước của “thời khói lửa” đã chắt chiu xương máu cho tao ăn học - ”Thầy Cãi” kết lại như vậy.
- Hay mày đi làm lại đi! Bạn bè chúng mình ở các cơ quan Nhà nước thiếu gì. Nhờ chúng nó giúp cho một chỗ mà ổn định cuộc sống chứ cứ thế này, tớ e, mệt lắm.
- Mày đừng quan tâm tới vấn đề này nữa! Tao chán rồi! Ngày xưa, khi tao xin nghỉ, ai cũng cản. Có người bĩu môi: “Ngữ ấy, bỏ biên chế nhà nước, có bốc cứt mà ăn!”. Tao cứ bỏ về ngang. Bây giờ mặt mũi nào mà “sáng vác ô đi, tối vác về” nữa? Vả lại, đất nước đổi mới rồi, cơ chế thoáng đãng rồi. Thời buổi bây giờ chỉ sợ không có năng lực thôi, chứ có thì ở đâu mà không sống được? Tao, “Thầy Cãi”, muốn cãi một phen cuối cùng! Và nói một mình mày nghe thôi: chỉ vì tao không muốn làm thuê mà muốn làm chủ, nên thất nghiệp, kể cũng đáng đời...
“Thầy Cãi” cười hà hà .
- Làm chủ thì phải có vốn! Mày có vốn chưa? – Tôi hỏi độp.
- Chưa! – “Thầy Cãi” xìu xuống liền - ...Chắc rồi cũng phải tìm cách xoay sở dần dần. Nói cho ngay, khi mới nghỉ việc, tao cũng gom được ít tiền làm vốn từ việc bán cái xe máy đời “chiến tranh” và vòng vàng nhẫn cưới của vợ. Nhưng mới xông ra mở tiệm đúng ba tháng là đứt, về nhà nằm tổng kết lại sự ngớ ngẩn của mình cho đến nay.
- Tiệm gì vậy?
- Tiệm làm cửa sắt … Có lẽ cũng phải đi làm công vài ba năm nữa để tích lũy vốn.
“Thầy Cãi” rít một hơi thuốc dài, thả khói một vùng, xong ngồi nhìn ra cửa sổ, vô định. Tôi thấy thương hại nó quá!
- Hay là thế này: tớ với bạn hùn hạp làm ăn, tớ bỏ vốn, bạn bỏ công, lời lãi chia đôi, được không?
“Thầy Cãi” quay ngoắt lại nhìn tôi chăm chăm rồi chậm rãi:
- Mày nói đùa? Góp vốn thì phải quản lý! Mày đi liên miên thế làm sao mà quản lý?! Thắng thua làm sao biết mà chia với chác? Tin bạn là mất bò và mất cả bạn luôn đấy nhé!
- Không, tớ tin bạn tuyệt đối luôn! Tiền gửi ngân hàng, lãi không bù được mức độ mất giá; đem sắm vàng thì chẳng đẻ thêm được, chỉ có quẳng vào làm ăn mới sinh sôi nảy nở thôi. Tớ biết bạn tốt, tớ tin bạn! Bạn chỉ cần nói cho tớ biết cần khoảng bao nhiêu tiền “chiến đấu” được để tớ lo.
- Nếu được như thế, tao là người phải cảm ơn mày. Nhưng cho tao một tuần suy nghĩ để trả lời dứt khoát được hay không. Nếu được, xin nói trước là phải tin tao tuyệt đối đấy nhé!
- Ừ thì mày cứ nghĩ đi! Nhưng ba ngày thôi! Gì mà đến những một tuần, lâu thế?!
 ***
Đúng một tuần sau thì “Thầy Cãi” điện thoại cho tôi thông báo số vốn cần có và đã tìm được mặt bằng mở tiệm. Không ngờ vốn ít đến thế, chỉ là hai lượng vàng! …
Tiệm sắt hoạt động được hơn một năm tôi mới ghé thăm, cũng vì bạn tôi hối thúc quá: “Hùn hạp  gì mà thờ ơ còn quá thằng cưỡi ngựa xem hoa!”
Tiệm sắt kể cũng rộng nhưng chỉ có ba người đang làm tất bật. Một là bạn tôi, có lẽ là thợ chính, hai người kia, mặt non choẹt, chắc chắn không học việc thì cũng chỉ là thợ phụ. Tiệm chẳng có gì ngoài vài ba cái máy nhỏ xíu, một hai bộ cửa đang làm và vài cây sắt loe ngoe.
Có lần tôi hỏi:
- Làm gần hai năm rồi, được không?
- Mới gầy dựng, chưa có khách quen nên chưa được bao nhiêu. Tao chưa tính sổ nhưng có lẽ cũng được khoảng hai triệu.
- Quá hay rồi! – Tôi động viên, dù biết “Thày Cãi” nói dối, sợ tôi buồn.
Cuối năm ấy, tôi nhắn “Thầy Cãi” đến nhà chơi. Sau vài ba ly bia, tôi vào thẳng vấn đề:
- Tớ không hùn hạp nữa đâu. Tiền hùn hạp, tớ nói thật đối với tớ không đáng bao nhiêu. Tớ tặng bạn luôn. Chúc bạn thành công! Khoan, cho tớ nói hết đã! Tớ quyết định như vậy không phải vì bất cứ điều gì nghi kỵ hay khuất tất đâu. Vậy, chúng mình thỏa thuận thế nhé!
Ở tình thế ấy, nếu là người khác, sẽ thanh minh, phân trần, hứa hẹn đủ kiểu, nhưng bạn tôi, “Thầy Cãi”, đã buông những lời chắc nịch:
- Tao hiểu! Từ lâu tao đã hiểu không ai bỏ tiền ra làm ăn mà hời hợt như vậy. Mày muốn thế, được thôi! Mày là một người bạn tốt hiếm có ở đời. Suốt đời tao không bao giờ quên ơn mày. Cái ơn này, chắc chắn tao không bao giờ trả được. Nhưng tao hứa, nếu ăn nên làm ra, tao sẽ giúp cho những phận đời cơ nhỡ khác. Riêng số tiền mày đưa tao và một triệu tiền chia lãi, tao sẽ trả mày nhưng từ từ vì mày biết đấy, mới làm ăn, từng đó vốn là hết sức cần thiết.
Rồi tôi và “Thầy Cãi” chén tạc chén thù, uống hết cơ man nào là bia, say bí tỷ.
 ***
Sau này dù rất ít khi gặp nhau, nhưng tôi biết: “Thầy Cãi” làm ăn ngày càng khấm khá, mua được cả nhà cửa, đất đai, thành lập công ty hẳn hoi. Bạn tôi giỏi thật! Tôi cũng có đôi chút tự hào!
Thấm thoắt từ độ ấy, thế mà đã mười lăm năm trôi qua. Thế hệ chúng tôi tóc đã bạc, mắt đã lão, đã bắt đầu bước vào cuộc an bài, tuân theo luật sinh tử. Và tôi nghĩ “Thầy Cãi” cũng như tôi, an nhàn và thỏa mãn ở quãng đời cuối cùng này.
Nhưng đúng là mấy ai thuộc được chữ “ngờ”!
Đùng một cái, cách đây bốn năm, “Thầy Cãi” ghé nhà tôi. Trông bạn tôi có vẻ rất mệt mỏi, da nhợt đi, má chảy xệ, mắt mờ đục.
Khi đã an vị, bạn tôi ậm ừ, nói như đứt hơi:
- Tao … gặp khó quá! Nghĩ nát rồi … mới đến mày. Không biết mày … mày … có giúp tao được … lần … nữa không?
- Có chuyện gì thế hả? Làm ăn bị gì hả? – Tôi sốt ruột thực sự.
- Nếu … mày … có khả năng … cho … cho … tao mượn … hay vay cũng được … Ngặt quá ! …
Bạn tôi đã muốn mượn một số tiền khá lớn, dù là trong khả năng của tôi, nhưng đối với đôi vợ chồng công chức bình thường thì lại là cả một gia tài không đến nỗi nhỏ.
- Có thể được!... Nhưng bao giờ bạn trả lại tớ?
- Cho tao … sáu … sáu tháng!
- Thôi được rồi! Hai ngày nữa bạn đến đây!
Một lần nữa, tôi lại nổi lòng trắc ẩn với “Thầy Cãi”. Không biết vì sao nữa! Hay vì lời nhắn nhủ xưa kia của nó, đã trở thành linh ứng trong tôi và không thể phai mờ: “Đừng xanh cỏ, không cần đỏ ngực, phải chiến thắng mà trở về!”
 ***
Một năm sau. chờ mãi cũng chẳng thấy “Thầy Cãi” đến trả tiền. Điện thoại di động nhiều lần không được (toàn tít tít) tôi đã bắt đầu nghi hoặc và nổi giận. Vợ tôi vốn rất quí “Thầy Cãi” cũng bắt đầu nổi điên, quay qua vặc tôi. Đúng là “ lòng người sâu thẳm ai đo cho tường!”.
Lúc rảnh rỗi là tôi chở vợ tôi đi tìm “ông bạn quí hóa”. Suốt mấy tháng liền như thế để rốt cục vợ chồng tôi cũng rút ra được một kết luận ngao ngán: “Thầy Cãi” khi về già đã trở thành “Thầy Chạy”. Tất cả mọi địa chỉ được cho là có hơi hám của gia đình “Thầy Cãi” đều là người khác ở và tất cả họ đều không biết tung tích "Thầy Cãi". Tôi ngậm ngùi xin lỗi vợ vì lòng tốt của mình.
Sự việc tưởng sẽ phôi pha, nào ngờ, đùng một cái nữa! Một buổi chiều đi làm về, con tôi (đã là một chàng trai) ra mở cổng và thông báo với tôi:
- Ba ơi, chú Cãi có đến gửi cho Ba một cái thùng gì trong nhà đó!
- Cãi nào? Ba có quen ai là Cãi đâu? Hay là Thầy Cãi?
- Không phải! Chú Thầy Cãi con biết mà... Chú này cao hơn, trẻ hơn nhiều!
Tôi xăm xăm xộc vào nhà, đến cái thùng cát tông để ở góc nhà, quên luôn cả tính thời sự đang nóng hổi của nạn khủng bố đang hoàn hoành trên thế giới (!), xé băng keo dán ra. Trong toàn giấy là giấy, tờ nào tờ nấy viết chi chít, chắc không dưới ba chục ký. Có một cái phong bì để trên cùng, ngoài ghi: “Thầy Cãi thân gửi Trần Hạnh Thu”.
Tôi vội bước đến xa-lông, ngồi xuống, xé phong bì, lấy tờ giấy đôi học trò trong đó ra. Và đây là nội dung bức thư mà “Thầy Cãi” đã viết:
Tp.HCM, ngày … tháng … năm 2010
THU thân mến.
Tao đã biến khỏi TP.HCM lâu rồi! Mày đừng tìm kiếm làm gì cho mất công!
Tao rất buồn vì không trả đúng hạn số tiền mày cho tao mượn. Và cho tới sau này, chắc cũng chẳng trả nổi nữa đâu! Cho tao ngàn lần xin lỗi vợ chồng mày nhé!
Xin nói thật lòng: mày là đứa bạn mà tao trọng vọng nhất, quí mến nhất, tin tưởng nhất! Vì vậy, tao khẩn khoản nhờ mày giúp cho tao một lần nữa, lần cuối cùng.
Số là tao đã ngộ ra một cái gì đó trong cõi trần gian này và tao đã cố gắng viết mấy năm nay, định cho ra một tác phẩm của đời mình. Giờ thì đã xong, chỉ còn phải chỉnh sửa một vài chỗ lầm lẫn, đánh máy cho sạch sẽ, đem in. Nhưng (số nó thế!) tao đã không còn kịp về thời gian, không đủ khả năng về … chắc mày cũng biết là gì rồi! …
Tao gửi gắm tất cả cho mày. Mày hãy hạ cố đọc nó! Nếu một mai này có một cuốn sách có tựa đề “Thực Tại và Hoang Đường” nằm trên quầy của hiệu sách nào đó, thì tao biết rằng mày đã giúp tao lần cuối cùng.
Giúp nhé, hỡi người bạn tốt nhất trên đời, cho tao được mãn nguyện, dù có thể tao tội lỗi, dù tao với mày, có thể, chỉ gặp lại được nhau ở bên kia chân trời thế giới.
TB: Nếu xuất bản đựơc thì tên tác giả phải là mày, quyết không thể khác được đâu đấy! Bởi vì tao với mày, tuy hai trong Thực Tại nhưng là một trong Hoang Đường, đồng thời cũng ngược lại: là hai trong Hoang Đường nhưng là một trong Thực Tại
                                                                                                                         Bạn của mày
                                                                                                                           Thầy Cãi
Khi đọc xong bức thư của “Thầy Cãi”, tôi đã văng tục, chửi nó là đồ điên, đồ khùng, quay sang thằng con trai đang trố mắt nhìn; ra lệnh:
      - Con mang cái thùng này quăng ra ngoài cho ba, để đây chỉ tổ dơ nhà!
Nói xong, tôi hậm hực lên lầu.
Trong cuộc đời có những hiện tượng về hành vi con người xảy ra mà ta không thể lý giải được. Nhiều  người cho đó là sự bộc lộ phản ứng của vô thức, hoặc là tác động về tâm linh. Tôi không biết là mình có tin không nữa. Có lẽ tôi ngờ ngợ. Như lúc này đây, khi giơ tay định mở cửa phòng, tôi mới thấy rằng mình vẫn còn cầm lá thư của “Thầy Cãi”. Lòng mới dịu xuống lại trào dâng nỗi buồn bã khó tả. Có một điều gì đó chộn rộn, ray rứt trong tôi. Như một cái máy, tôi hấp tấp quay xuống lầu.
- Cái thùng của chú “Thầy Cãi” đâu rồi? – Tôi hỏi con trai và khi nghe nó nói đã mang ra để ngoài cổng, tôi cuống quít – Con mang nó vào đi, nhanh lên!
Thằng con tôi hình như thích mệnh lệnh này hơn mệnh lệnh ban nãy, chạy vụt đi vác ngay cái thùng vào.
      - Để đâu ba?
- Con mang vào phòng của ba, để đâu cũng được - Thấy nó hơi có vẻ thất vọng, tôi nói thêm – Mai mốt có thích thì vào đó mà đọc. Rồi đây có thể con sẽ phải giúp ba sắp xếp lại để in thành sách nữa đấy!
 ***
Chiều hôm sau tôi bắt đầu đọc câu chuyện của “Thầy Cãi”. Vài tờ đầu toàn là những kể lể vớ vẩn không đâu vào đâu. Vài tờ sau là những suy tư cố bắt chước kiểu “triết gia” nhưng có lẽ vì không đủ “lực” nên thành ra hời hợt, ngây ngô và sáo mòn. “Lại một gã nông dân nữa muốn đứng vào hàng ngũ những bậc hiền triết!”, tôi nghĩ vậy, uể oải ngáp rồi bụng bảo dạ: “Lấy mấy tờ giữa thùng ra coi xem sao”. Để đánh giá sơ bộ một cuốn sách, người ta cũng vẫn thường làm thế, đọc vài trang đầu rồi lật ra đọc lướt vài trang giữa, trang cuối cùng và mục lục.
Tôi đã hành động đúng (ngẫu nhiên hay có sự mách bảo của vô thức?!). Đọc mấy tờ ở trong “ruột”, tôi không tin vào mắt mình nữa. “Thầy Cãi” đúng là một con người có lối suy nghĩ thực sự quái gở. Tôi không hiểu gì cả nhưng đã lờ mờ nhận ra cái “tâm huyết” của “Thầy Cãi”. Một “tâm huyết” có lẽ đã bắt nguồn từ rất lâu rồi, từ thuở mà câu đố “Một nhân với một bằng mấy?” bật ra từ não nó. Không, gì thì gì cũng phải giúp “Thầy Cãi” lần cuối cùng! Ngay lúc đó tôi đã hạ quyết tâm như vậy. Thế là tôi đã vâng theo định mệnh?
Và ngày qua ngày, tôi đã ngấu nghiến toàn bộ cái thùng giấy ấy, không sót một tờ, rồi nghiền ngẫm, rồi sắp đặt lại cho có lớp lang, đặt lại đề mục …
 ***
Khi quí độc giả đọc đến dòng này thì có nghĩa rằng câu chuyện kể về bạn tôi đã kết thúc và chuẩn bị bước vào câu chuyện rất dài của bạn tôi, kể về … một cái gì đó (!).
Câu chuyện của bạn tôi, bình thường thôi, sẽ có người khen kẻ chê, người cười kẻ khóc. Được như thế đã là quí hóa rồi! Miễn đừng nguyền rủa bạn tôi là kẻ đặt điều và nói dóc!
Đúng sai thế nào, xin quí độc giả hãy đọc và tự đánh giá! Cầu mong sao mọi người, khi đọc xong “Thực Tại và Hoang Đường” sẽ thấy thế giới này đẹp hơn, lung linh huyền diệu hơn, đáng yêu hơn -  cái thế giới mà chúng ta đều dự phần trong đó, dù ngắn ngủi!
Xin “bật mí” thêm rằng trong câu chuyện dài dằng dặc của bạn tôi, “Thầy Cãi” tùy lúc, còn có thể núp dưới những danh xưng: “Chúng Ta”, “Nhà Thông Thái”, “Tôi”, “Hoang Tưởng”, “Hiện Thực”, và “tếu” hơn là có những lúc hai ba danh xưng đó hiện ra cùng tranh luận sôi nổi hoặc vặc nhau chí chóe. Đến tôi, kẻ hiểu bạn tôi nhất, cũng thấy thật là kỳ dị. Nhưng thôi, quí độc giả không nên bận bịu đến chuyện nhỏ đó làm gì mà hãy chú tâm đến nội dung lớn ẩn chứa trong tập sách. Hơn nữa, vì tôi đã cố gắng hết mức có thể nhằm "bảo vệ" sự trình bày cũng như câu chữ ở dạng "nguyên thủy", nên quí độc giả cũng sẽ cảm nhận được quá trình thật của một bộ não suy tư nhận thức từ ngây ngô (với không ít những phát biểu ngớ ngẩn) đến già dặn (với không ít những nhận định "kinh khủng") của một con người (hình như) có vấn đề về mặt...tâm thần!
 ***
Ấy chết! Rất xin lỗi độc giả vì tôi đã quên một điều cực kỳ quan trọng, đó là tỏ lời cảm ơn đến Nhà xuất bản, đã hạ cố, tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi phát hành được tập sách của bạn tôi ra xã hội. Vậy, cũng xin mạn phép nói thêm vài lời.
Thú thực là trước khi đến NXB này, tôi đã đi tìm nhiều chỗ, từ “ông” xuất bản, “ông” in ấn, “ông” phát hành và cả “ông” kinh doanh sách để nhờ vả nhưng rồi đều “công cốc”. Nói chung là chỉ nhận được một sự thờ ơ: “ông” thì tế nhị giới thiệu cho một ông khác, “ông” khác nghĩ tôi (thực ra là bạn tôi) chẳng có tên tuổi gì mà viết ra một đống sách ngồn ngộn như thế thì có thể là tâm thần nên lờ tịt luôn, chẳng có một lời từ chối xã giao, “ông” thì khi nghe nói tập sách nặng về suy tư triết lý đã lắc đầu nguầy nguậy vì sợ dính líu đến chính trị. Còn “ông” này mới lạ, đến tận nhà tôi đọc qua loa bản thảo rồi phán: “Nếu anh muốn xuất bản qua công ty tôi thì, phải để công ty tôi biên tập, thậm chí nếu thấy cần thiết thì sẽ sửa đổi, có khi phải sửa đổi đến 90% mới ổn, mới có thể bán được!”. “Thế còn bản quyền?” - tôi hoang mang hỏi. Ông ta trả lời ngọt xớt: “Thì anh với công ty cùng hưởng!”. Thật đúng là kinh “thế” thị trường!...
Nhưng nghĩ kỹ, có lẽ nên thông cảm hơn là trách móc, vì xét cho cùng, những “ông” ấy phải chịu áp lực từ nhiều phía.
Để chứng thực điều kể trên là có cơ sở, tôi xin đăng bức thư tôi viết gửi giám đốc một Công ty sách nọ để nhờ và chỉ vì muốn giúp bạn tôi toại nguyện, nhưng đã bị… ghẻ lạnh. Qua đó, tôi xin gián tiếp tỏ lời cám ơn đến Nhà xuất bản đã tạo cho bạn tôi cơ hội “khoe” được câu chuyện hoang đường của mình ra thiên hạ.
(Xin phân trần rằng, vì tập sách này nhuốm đẫm màu phi thực tế nên bức thư có thể là “thực” ở đây nhưng là “hư” ở chỗ khác, mong quý độc giả lưu ý!)
 ***
Kính gửi anh Li
Mấy bữa trước tôi có liên hệ với anh qua điện thoại để nhờ anh giúp đỡ xuất bản một tập sách. Anh nói hãy thông tin qua email cho anh. Vậy, tôi gửi anh thư này để trình bày.
Thú thực là rất khó nói mạch lạc về nội dung tập sách vì đó là một câu chuyện lớn và lan man, trải dài ra trên hơn bốn ngàn trang sách. Có thể tạm tóm tắt thế này: có một kẻ do bị thôi thúc bởi cái khát vọng tìm hiểu cho được căn nguyên Vũ Trụ nên đã thực hiện một cuộc hành trình vô tiền khoáng hậu, đi khắp “chân trời, góc bể” trong lịch sử và trong hoang tưởng. Qua cuộc hành trình ấy, kẻ đó kể lại một câu chuyện thuộc hàng tràng giang đại hải nhất từ xưa đến nay về nhiều lĩnh vực, với nhiều sự kiện lớn lao của lịch sử xã hội loài người cũng như về lịch sử của quá trình nhận thức của họ (mà tất nhiên, phần lớn là nhờ góp nhặt được từ đủ loại sách báo!). Lồng vào câu chuyện đó là rất nhiều những phỏng đoán, suy đoán, phê phán, phản biện, nhận định mới về tự nhiên - xã hội, theo một quan niệm riêng, nhiều khi thật kỳ lạ của kẻ kể chuyện. Trong đó cũng có nhiều những phát kiến bất ngờ mà nếu có lý (cũng có thể là hoàn toàn vô lý vì cho đến lúc này tập sách vẫn chưa được công bố nên chưa ai biết để thông qua kiểm chứng số đông), thì chắc chắn sẽ làm xôn xao đương thời.
Tuy nhiên, mục đích cốt lõi nhất, sâu xa nhất của tập sách là muốn giới thiệu với thế giới một phác thảo học thuyết triết học mới, ẩn chứa tiềm tàng trong những trang sách mà tôi cho là giản dị và đúng đắn nhất từ xưa đến nay. Phác thảo học thuyết này là sự kế thừa có phê phán và sáng tạo từ những tư tưởng triết học Đông - Tây thời cổ đại và nhất là từ một triết thuyết của phương Đông, đã xuất hiện cách nay trên dưới 2500 năm mà do trình độ nhận thức còn hạn chế của hậu thế, cũng như do lối hành văn “kiệm chữ” của thời kỳ đầu sử dụng văn tự, nó đã không được hiểu đúng ý tác giả, thậm chí là bị hiểu lầm, bị xem nhẹ và cả bị quên lãng.
Rất có thể toàn bộ tập sách chỉ là một sự hoang tưởng khổng lồ, không hơn không kém. Nhưng như tôi được biết thì bạn tôi, kẻ kể và viết lại câu chuyện này đã phải “tốn” không dưới 30 năm suy tư nghiền ngẫm và không dưới 8 năm miệt mài ghi chép, nên bản thân tôi, tôi vẫn đặt cược toàn bộ niềm tin vào nó, dù thực ra tôi chưa hiểu được nhiều điều trong đó.
Thông qua sự giới thiệu của nhà báo A, được biết anh là người có năng lực, am tường và có những mối quan hệ tốt trong lĩnh vực đăng ký bản quyền, quảng cáo, xuất bản, in ấn, phát hành nên tôi mạnh dạn liên hệ với anh nhờ giúp đỡ hoặc trực tiếp hợp tác trên tinh thần đôi bên cùng có lợi.
Vì bạn tôi, tôi biết, không phải là người viết văn chuyên nghiệp, cũng chẳng có tên tuổi gì trong xã hội nên việc kinh doanh sao cho có lãi đối với tập sách này quả là phiêu lưu. Hiểu điều đó, tôi sẵn sàng hợp tác với điều kiện chịu mọi phí tổn ban đầu. Tôi cho rằng, nếu quảng cáo tốt và gặp may thì tình hình kinh doanh chắc không đến nỗi tệ lắm đâu!
Rất mong anh Li xem xét và tận tình giúp đỡ!
Kính chào trân trọng
                                                                                                           Ngày..., tháng..., năm...

(Khi viết những dòng trên, tôi đã chắc mẩm sẽ xuất bản được "Thực Tại và Hoang Đường". Nhưng không!...Chỉ còn cách lập blog để đăng lên mạng Internet với danh xưng Đại Chúng. Và hôm nay tôi bắt đầu "cuộc hành trình"! Dù sao thì cũng vui lòng nhé, Thầy Cãi!!!)

                                                         ___________________

TỰ TÌNH

Tôi còn nhớ khi tôi độ sáu tuổi, mẹ đưa tôi đi cắt amidan. Thời đó trước khi cắt amidan là phải chụp thuốc mê. Tôi đã khóc và hoảng sợ. Mẹ tôi đứng cạnh vỗ về: “Không sao đâu con! Một chút xíu thôi mà!”. Rất nhanh, tôi buồn ngủ ghê gớm và thấy mình lạc vào bầu trời đêm tĩnh lặng, mênh mông. Tôi cảm thấy dễ chịu, cơ thể nhẹ hẫng và bay ngày càng nhanh về một ngôi sao rất xa, sáng lấp lánh, sáng nhất trong số các sao trong bầu trời đêm ấy. Tôi cứ thế bay, bay mãi nhưng ngôi sao thì cứ vẫn ở xa, xa vời …
Hình ảnh ấy khắc rất sâu vào tâm khảm tôi. Sâu đến nỗi từ đó đến mãi tận bây giờ, cứ mỗi lần nhìn lên bầu trời đêm sao, nhất là vào mùa thu, là tôi lại cảm thấy lâng lâng một nỗi nhớ nhung da diết về một cái gì đó rất quen thuộc nhưng cũng rất mơ hồ, ở tít tắp đâu đó tận chân trời Vũ Trụ.
Một lần khác, cuối năm lớp bảy phổ thông, đang kỳ ôn thi chuyển cấp, lên lớp tám thì tôi lăn ra ốm một trận kịch liệt, liệt giường liệt chiếu. Người sốt hầm hập, đầu quay cuồng. Có một điều rất lạ là cứ mỗi lần chợp mắt là y như rằng tôi thấy mình đang ở trên một con thuyền chòng chành, bập bềnh giữa biển mênh mông không bờ không bến. Trên là mặt trời chói lóa ánh nắng, sáng lắm! Dưới là sóng dạt dào, đâu đâu cũng sóng, sóng lấp lánh muôn màu. Bốn bề không một hơi gió. Ấy vậy mà chẳng thấy nóng chút nào, lại có vẻ như còn mát mẻ nữa. Lạ hơn nữa là ở tình trạng ấy, tôi không hề cảm thấy cô đơn mà trái lại, thấy thích thú, thoải mái vô cùng. Mỗi lần tỉnh lại, tôi cứ như bị hụt hẫng, tiêng tiếc.
Sau lần thập tử nhất sinh ấy, trí nhớ của tôi suy giảm đến không ngờ. Trước tôi học đâu nhớ đó. Thậm chí có những môn tôi thuộc làu cả sách giáo khoa, nhớ đến từng trang, từng dòng, từng chữ. Thế mà khi khỏi ốm, tôi quên hầu hết những gì vừa học ôn thi. Cái gì cũng chỉ nhớ mang máng. Tôi phải chật vật học thuộc lại từ đầu những gì đã thuộc, vậy mà khi thi cũng suýt nữa thì trượt, điểm vừa đủ đạt yêu cầu. Bạn bè tôi đã rất ngạc nhiên. Nhưng tôi chẳng thổ lộ với ai về điều ấy.
Từ đó tôi học sa sút hẳn. Trí nhớ tôi đã chẳng bao giờ còn phục hồi lại được nữa. Đọc một quyển sách khoa học, có thể tôi hiểu rất cặn kẽ. Nhưng khi đọc xong vài ngày thì chỉ còn nhớ mang máng, chung chung chứ không thể nhớ cụ thể và chi tiết như trước. Chẳng hạn một câu danh ngôn hơi dài một chút thì chỉ sau vài ngày, một tuần không nhắc đến là tôi quên, chỉ còn nhớ đại ý mà thôi.
Có một chuyện như thế này: thời còn sinh viên, một lần thi “vấn đáp” môn Nhiệt học, tôi rút phải một đề thi có hai câu hỏi, trong đó một câu yêu cầu viết một công thức liên quan đến nguyên lý thứ hai nhiệt động học. Tôi chỉ trả lời được câu hỏi kia (câu hỏi phụ). Thầy giáo coi thi, một người nổi tiếng nghiêm khắc với câu nói “Tôi chỉ có thể cho các anh điểm hai, điểm ba thôi (thang năm điểm, điểm hai là đạt yêu cầu, điểm năm là giỏi!), nếu tôi cho ai điểm bốn thì coi như người đó bằng tôi. Trên đời này, chỉ có Thượng đế được năm điểm!”, đã nói với tôi rằng:
- Anh nghĩ sao khi tổ quốc của anh chiến đấu một mất một còn với quân xâm lược, thì anh ngồi đây trả lời được câu hỏi chỉ đáng điểm một?
Thầy giáo ấy nói đúng vì không thể hiểu được! Tôi còn nhớ lúc đó tôi đã cúi gằm mặt xuống, không phải vì xấu hổ mà vì cố ghìm nén những giọt nước mắt uất ức đang muốn trào ra. Nhưng rồi lòng tự trọng từ đâu đến cứ trào dâng đến ngộp thở, tôi bật ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mắt người thấy giáo mà tôi rất kính trọng vì tài năng nhưng đã hỏi một câu quá “lớn chuyện”; nói mạch lạc:
- Thưa giáo sư! Tôi không thuộc, nhưng tôi rất hiểu. Nếu có thời gian, tôi sẽ thiết lập được biểu thức ấy! 
Thầy giáo nhìn tôi, đo lường rồi cười mỉm:
- Nếu anh muốn thế, tôi sẽ cho anh hai mươi phút để có cơ hội nâng điểm thi hôm nay của anh từ điểm một lên điểm hai. Anh hãy ra cái bàn kia!
Như vậy, tôi đã được ưu tiên thi lại ngay lập tức với một bài thi viết mà đề bài là chứng minh công thức.
Tôi khẩn trương vẽ mô tả hiện tượng, đặt các kí hiệu, lập mối quan hệ giữa các đại lượng, suy luận và biến đổi chúng. Và chân lý đã hiện ra thấp thóang. Tôi liếc nhìn đồng hồ đeo tay: hết hai mươi phút. Chỉ còn vài thao tác mang tính kỹ thuật nữa là tôi sẽ đến đích. Muốn thế tôi phải có thêm mười phút. Nhưng điều đó không quan trọng và cũng chẳng cần thiết nữa. Tôi đã nhớ lại được biểu thức. Tôi vội chấm ba chấm to tướng (chấm lửng) rồi ngay sau đó tôi viết biểu thức cần chứng minh theo những ký hiệu mà tôi vừa đặt trong một niềm vui khôn tả. Tôi cảm thấy mình đã làm được một điều phi thường!
Tôi dừng bút và ngẩng lên, vừa lúc thầy giáo kiểm tra xong một sinh viên và quay sang nhìn tôi:
- Thế nào? … Mời anh lên!
Tôi bước đến, ngồi xuống và trịnh trọng đưa cho thầy giáo tờ chứng minh của mình. Sau vài phút soi xét, thầy giáo quay sang chăm chăm nhìn tôi, mặt nghiêm trọng. Tôi đang khấp khởi vui, bỗng phát hoảng: “Trời ơi trời, chuyện gì vậy?!”.
Nhưng không!
- Anh đã hiểu rất sâu vấn đề, tại sao lại không nhớ công thức? – Và thầy giáo bỗng cười – Anh đã làm tôi ngạc nhiên đấy!
 Tôi như sắp chết đuối vớ được cọc, đâm ra phởn chí:
- Thưa giáo sư, tôi trộm nghĩ, không ai có thể nhớ hết được các biểu thức của nhiệt học!
- Kể cả tôi nữa à? Không sao, anh nói đúng! Hôm nay anh làm tôi vui vì anh đã tự cứu mình bằng một chứng minh: hiểu mà không nhớ có thể còn cứu vãn được, nhớ mà không hiểu mới là điều tồi tệ! Anh đã thoát được điểm một, tôi không muốn cho anh điểm hai, điểm năm là của Thượng đế, chỉ còn điểm ba và điểm bốn, anh chọn điểm nào?
Tôi lí nhí:
- Xin cảm ơn giáo sư! Nếu ngài cho phép, tôi xin chọn điểm ba!
- Tôi cho anh bằng tôi, điểm bốn!
 ***
Có thể hai sự kiện (cắt amidan và bị ốm) đã làm cho tôi có những thể hiện để bạn bè đặt cho những cái tên ngộ nghĩnh như “Cha Cố”, “Chàng Ngố” … Và một cái tên “chết” đến tận ngày nay: “Thầy Cãi” …
Không biết có phải vậy không, nhưng tôi cảm nhận được một điều chắc chắn rằng tôi là một kẻ hết sức tò mò tọc mạch; điều gì cũng muốn biết đến tận cội rễ của nó. Chính vì thế mà hồi nhỏ tôi rất ham hố tranh luận, hăng say tranh luận và sau này trở thành một con mọt sách. Tuổi trẻ, tôi đọc bất cứ một quyển sách nào có trong tay, bất cứ một tờ giấy có chữ nào, kể cả giấy gói xôi. Nhưng đọc say mê nhất là những quyển sách khoa học - triết học, những quyển sách nói về những hiện tượng bí ẩn của Tự Nhiên.
Khi xưa, ngày bác tôi còn sống, có một lần tôi rụt rè hỏi:
- Trong xã hội Xã hội chủ nghĩa đã có công bằng và ấm no hạnh phúc rồi thì còn cần gì lên Chủ nghĩa cộng sản nữa hả bác?
- Chế độ Xã hội chủ nghĩa đành rằng là công bằng và ấm no hạnh phúc nhưng chưa toàn vẹn, con ạ. Cần phải phấn đấu lên nữa! Chế độ Cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp hơn.
- Thế trên Chủ nghĩa cộng sản là gì hả bác?
Bác tôi chựng người, nhìn tôi một lúc mới trả lời:
- Cháu ạ, bác cũng chưa biết được. Có thể vẫn là chế độ Cộng sản chủ nghĩa thôi, nhưng được phân biệt theo thứ bậc. Chẳng hạn Chế độ Cộng sản chủ nghĩa I, Chế độ Cộng sản chủ nghĩa II, vân vân …
 Bác tôi mách mẹ tôi (tôi nghe lóm được):
- Này thím, thằng nhỏ con thím lạ lắm đấy! Cỡ tuổi nó mà hỏi những câu rất sâu sắc. Đến tôi còn lúng túng…
Lần khác, thấy quyển có tựa đề “Chống Đuy rinh”, tôi hỏi mượn. Bác tôi cười bảo:
- Con nói cho bác nghe, con muốn tìm hiểu gì trong đó?
- Dạ, con chỉ thấy thích thích thôi!
Câu hỏi đó của bác tôi, vô tình đọng trong tôi rất lâu, về sau trở thành nỗi thắc mắc của chính tôi.
Tôi thích gì? Tôi tìm gì trong cuốn sách mà hồi đó tôi đọc chẳng hiểu gì cả ấy? Tôi đã không thể trả lời được trong một thời gian dài.
Nhưng rồi khi đã lớn khôn hơn, suy nghĩ đã “có đầu có đũa” hơn, tôi dần dần tìm được câu trả lời. Câu trả lời chìm rất sâu trong tiềm thức, có nguồn gốc từ rất xa trong ký ức. Hóa ra là tôi chưa bao giờ quên mà trái lại, ngày càng thương nhớ cái đêm có cảm giác rất thân thuộc xưa kia, cái đêm mà trong đó, tôi đã bay về một vì sao lấp lánh nhất trong một cơn mê, tôi đã “thấy” mình bay, bay mãi, ngày một nhanh, đột ngột nổ ra thành muôn ngàn sao rồi ngôi sao thành mặt trời chói chang ánh sáng, muôn ngàn sao thành đại dương sóng lấp lánh, và tôi thành con thuyền bập bềnh giữa mênh mông trong một cơn mê khác. Chính vô thức đã thúc giục tôi đi tìm về những quang cảnh kỳ diệu ấy trong thực tại.
Năm tháng qua đi, câu trả lời ngày càng hiện rõ hơn và ở tuổi thanh xuân của tôi, đã trở nên đích thực, đó là:
Sự thèm khát vô hạn được hiểu nguồn gốc Vũ Trụ! Và sự thèm khát ấy có thể đã xuất hiện từ hai ba kiếp trước!
Cứ mỗi lần nghe bài hát “Lá diêu bông”, tôi lại thầm cười mình. Chàng trai trong bài hát có thể cuồng si như tôi, nhưng không thể viển vông hơn tôi được. Có thể nhặt bất cứ cái lá “lạ hoắc” nào và gọi bừa là lá diêu bông cũng được nhưng không bao giờ tìm được trong thực tại một vùng lấp lánh do chính mình nổ tung ra.
Ấy vậy mà tôi vẫn đi tìm!
Tìm cần mẫn như một kẻ nô lệ!
Nô lệ một cách tự giác!
Tôi đã biến hầu hết đời mình thành một cuộc trường chinh ngồi đọc sách và tưởng tượng. Đọc rồi tưởng, tưởng rồi đọc, đọc triền miên, tưởng mãnh liệt. Đầu lúc nào cũng lưu lạc đâu đó trong miền hư thực, đầy sương khói. Lúc hí hửng à lên sung sướng, lúc tiu ngỉu thở dài buồn bã, khi thì tràn trề hy vọng, khi thì chán nản bi quan. Tất cả cứ đan xen, nối tiếp nhau, hòa quyện nhau dài dặc, triền miên.
Và tôi đã hiểu rằng … tôi chẳng hiểu gì!
Loài người đã có vô kể những bức tranh mô tả Vũ Trụ được các triết gia vẽ nên. Chẳng có bức tranh nào giống bức tranh nào! Mỗi người vẽ một kiểu theo ý mình. Thế hệ sau bình phẩm và thêm bớt vào những bức tranh của thế hệ trước; thậm chí khước từ tất cả để vẽ lại bức tranh mới. Tôi thấy bức tranh nào cũng đẹp và có lý. Đọc tranh ông này thấy đúng và hiểu rằng ông kia sai. Đọc tranh ông kia cũng thấy đúng và nhận ra cái sai ông này. Cứ thế chẳng biết ai đúng ai sai. Hay là tất cả đều đúng và như thế phải có rất nhiều Vũ Trụ? Nếu tất cả đều sai thì sao nhân loại phát triển được tới ngày hôm nay? Có thể nào mỗi bức tranh đều vừa đúng vừa sai? Rất có thể như thế! Nếu như thế thì chọn những nét đúng của mỗi bức tranh để ghép lại thành một bức tranh tổng thể, chính xác về Vũ Trụ được không? Giả sử làm được điều đó đi nữa thì có “thấy” được nguồn gốc Vũ Trụ không? Hay Vũ Trụ không có nguồn gốc?
Và tôi lại hiểu rằng … tôi hoang mang tột độ!
Hoang mang tột độ nhưng tôi vẫn đi tìm! Vũ Trụ nếu không có nguồn gốc thì tôi làm sao tìm được nguồn gốc? Nhưng chắc chắn Vũ Trụ phải có căn nguyên! Ít ra tôi vẫn có thể tìm ra căn nguyên để hiểu được Vũ Trụ này!
Và tôi lại đi tìm!
Tôi đi tìm miệt mài năm tháng, đến kiệt cùng trí lực, vẫn “bóng chim tăm cá”!
Một tối nọ, tôi ngồi một mình uống rượu giải sầu, mơ màng ngắm bầu trời sao và tự vấn rằng: trước khi từ giã cõi đời này, tôi có thể hiểu được cái bao la ấy không? Một ý nảy ra làm tôi buồn cười: nếu là một đứa trẻ thơ, tôi đâu có khổ sở như thế này. Đứa trẻ thơ chỉ cần một câu chuyện thần thọai hay cổ tích là đã hiểu tường tận Vũ Trụ này rồi. Đối với các bậc hiền triết, các nhà bác học thì xét về mặt kiến thức tôi cũng chỉ như đứa trẻ thơ. Tại sao tôi cứ phải lao tâm khổ trí cố hiểu Vũ Trụ này theo cách nghĩ của họ? Một tia chớp chợt lóe nhì nhằng trong đầu, và cái ý nghĩ đáng cười cợt ấy bỗng trở nên nghiêm túc.
Ừ nhỉ, tại sao không?! Tại sao tôi không có quyền nhìn ngắm thế giới này bằng ánh mắt tuổi thơ, dù rằng tôi đã già? Biết đâu chừng khi người lớn nhìn theo cách trẻ con, họ sẽ tìm thấy được cái gì đó bấy lâu nay kiếm tìm và sẽ hiểu được cái gì đó đã thấy? Tôi còn nhớ một bức tranh và xin mạn phép vẽ lại như thế này:




Đó chính là tuyệt tác của Antoine De Saint  Exupéry, khi ông mới sáu tuổi. Người lớn luôn thấy nó là một cái mũ. Đối với người lớn, thì như Exupéry nói: “Những gì ta nhìn thấy chỉ là lớp vỏ bề ngòai. Cái quan trọng nhất luôn vô hình …”. Nhưng mắt trẻ thơ lại nhìn ra tức khắc cái vô hình ấy. Nếu hỏi Hoàng Tử Bé bức tranh đã vẽ gì, chú sẽ trả lời ngay rằng đó là một con trăn nuốt một con voi trong bụng!
Hoàng Tử Bé đã từng nói với Exupéry như thế này: “Con người ở chỗ chú, họ trồng năm ngàn bông hoa hồng trong cùng một khu vườn … Và họ không tìm thấy thứ mà họ đi kiếm … Vậy mà thứ họ đi kiếm có thể tìm thấy được chỉ trong một bông hoa hay một ít nước …”.
Nhắc đến Hoàng Tử Bé, tôi lại nhớ về cơn mê xưa. Đúng rồi! Tôi cũng đã từng có một ngôi sao, đã từng nhìn thấy điều kì diệu. Tôi đã từng có cách nhìn và cách cảm của tuổi thơ. Tôi nhớ hình như thời thơ ấu, tôi thấy cái thế giới này sinh động và dễ hiểu hơn nhiều. Và tôi đã mất cách nhìn cách cảm ấy khi lớn lên, khi cố làm cho bộ não khôn hơn, già đi?
Phải tìm lại tâm hồn tuổi thơ!
 ***
Nhưng làm sao mà tìm lại được tâm hồn tuổi thơ khi con người ta đã khô cằn theo năm tháng cuộc đời? Tôi đã đọc ngốn ngấu truyện thiếu nhi, xem những chương trình dành cho thiếu nhi trên ti vi, thậm chí nghêu ngao những bài hát thiếu nhi. Tất cả là vô ích!
Tôi lại thử mường tượng về tuổi thơ của chính tôi ngày xưa, cố hình dung lại những gì mà hồi đó tôi đã làm, đã nói và đã hành động. Vô ích nốt!
Đã vô ích, lại còn buồn thêm! Sao mà tiếc một thời hồn nhiên ấy thế! Tha hồ mơ màng, tha hồ vui đùa, tha hồ trêu chọc. Quan hệ bạn bè thẳng tuột, trong sáng và vô tư lự. Ước gì lại được về sống với tuổi hoa niên, với “nhất quỉ nhì ma, thứ ba học trò”. Ước gì tôi lại là “Thầy Cãi” để ra những câu đố “trên trời dưới biển”, tạo cớ cãi với bạn bè cho sướng miệng. Nghĩ lại mà thấy vui! Đến tận bây giờ chắc đám bạn học của tôi vẫn cứ nghĩ câu tôi đố “Một nhân với một bằng mấy?” là một câu đố mẹo. Nhưng nào phải mẹo mọ gì đâu! Chỉ là một cái bẫy tầm thường kiểu con nít …
Không? Không hẳn thế! Hình như là tôi chưa nhớ hết kỉ niệm. Câu đố đó, dù tầm thường, nhưng không thể ngẫu nhiên xuất hiện trong đầu tôi được? Vậy thì do đâu mà câu đố đó xuất hiện? Tôi vội cầm bút viết to cái câu đố tầm thường ra giấy:
1 x 1 = ?
và chăm chú ngắm nó. Nhức cả mắt mà chẳng thấy gì! Nếu đó là cái mũ thì theo thông lệ, tôi sẽ thấy ngay con trăn và con voi. Đằng này nó lại quá rõ ràng!
 Tôi vẫn cố giương mắt ra nhìn, đồng thời tập trung cao độ để nhớ cho ra hồi đó tôi đã thấy điều gì ẩn giấu sau cái vẻ tường minh và đơn điệu đến như vậy. Tôi đã nhìn rất lâu, nhìn mãi, nhìn mãi, nhìn đến lúc mệt nhoài, tưởng chừng như không thể hi vọng được nữa thì đột nhiên tôi thấy hiện lên trong đó một bầu trời sao. À! Ra thế! Mấy mươi năm trước, tuổi thơ tôi đã thấy như vậy. Nếu là Hoàng Tử Bé, cũng sẽ thấy tương tự như vậy. Còn chúng ta, khi đã là những người lớn hôm nay với đủ những bận bịu, toan tính đời thường sẽ luôn luôn chỉ thấy:
1 x 1 = 1
mà thôi
Phải nói rằng tôi đã tìm lại được cách nhìn thơ ngây của mình!
 ***
    Tôi đã vui mừng quá sớm vì điều đó!
    Sau đó ít hôm, em tôi tới nhà chơi. 
    Trong lúc vui chuyện tôi lôi câu đố muôn thuở ra thử nó:
- Mày tính dùm tao xem, một nhân với một là mấy?
      - Anh lại gài độ chứ gì?
      - Không đâu! Tao hỏi thật đấy!
      - Bằng một chứ mấy!
      - Sao lại không là một bình phương?
      - Thì một bình phương không là một à? Con nít còn biết …
      - Ừ! … - Tôi cười – Con nít còn biết nhiều hơn thế …
      - Anh nói con nít biết nhiều hơn là sao?
- Chúng ta, anh em mình đều biết rằng số một là số vô cùng quan trọng, quan trọng nhất trong tất cả các con số. Không có nó, lâu đài toán học lập tức sụp đổ tan tành. Nhưng chúng ta lại không thấy được số một đồng thời cũng là vô nghĩa. Mà điều này con nít lại thấy. Không ai dỗ dành con nít bằng số một cả mà phải bằng cái bánh, cái kẹo … Bởi vì có một tỷ số một đi nữa, nó cũng không nhìn thấy: Số một, khi không có nội dung bên trong sẽ không thể hiện hữu trong thực tại. Từ đó ta thấy rằng phép toán:
1 x 1 = 12 (hay bằng 1)
là hoàn toàn vô nghĩa. Muốn cho phép toán đó có nghĩa thì số một phải có nội tại, nghĩa là, ta phải cho nó mang một ý nghĩa vật lý nào đó; ta phải gán cho số một một nhãn mác nào đó. Chẳng hạn ta gọi một là một ngôi sao, lúc đó phép toán sẽ được thực hiện:
ngôi sao x ngôi sao = (ngôi sao)2  ≠ ngôi sao
Suy rộng ra, ở trường hợp to tát nhất:
1n = Vũ Trụ
Đối với tao, Vũ trụ là duy nhất nên có thể đặt là 1. Vậy thì:
1n = 1      
 (hoặc theo qui ước của toán học, cũng có thể bằng 0)!!!

Nghĩa là 1 lúc này là nghiệm riêng, trường hợp đặc biệt của bài toán
     
                      khi n = 1 (n phải khác 0, vì khi n bằng 0 sẽ không viết được 
                vế trái! Ở đây, qui ước toán học đã bộc lộ sự bất cập!!!)
Em tôi há hốc mồm ra ngồi nghe. Chắc chắn nó chưa bao giờ được nghe những điều quái lạ như vậy. Cái quan trọng nhất lại là cái không nhìn thấy được trong thực tại. Nhưng tôi biết nếu điều tôi vừa nói có đúng đi nữa thì nó cũng không bao giờ tin. Bởi đầu nó đã bị "gông xiềng" mất rồi! Dù sao thì nó đã không phản bác tôi được câu nào, chỉ vớt vát:
- Trong đó phải có một ngụy biện nào đó mà thú thực là em chưa phát hiện ra.
Tôi nhìn thằng em khoái chí ra mặt.
Tôi không ngờ nó lại nhìn thấy tôi ở khía cạnh khác. Hôm sau nó điện thoại cho vợ tôi. Vợ tôi kể lại:
- Nó nói với tôi là ông có vấn đề. Mắt ông dạo này trông có vẻ dại dại làm sao ấy. Nó nghi ông mắc chứng hoang tưởng và nói tôi khuyên ông đến bác sĩ khám xem sao, kẻo để lâu bệnh biến chuyển nặng thêm thì nguy.
Tôi cười phá lên, cười sặc sụa.
- Tôi cũng thấy ông như thế đấy! Còn cười gì nữa! … Mai ông đi khám đi cho tôi nhờ! - Vợ tôi lườm nguýt.
Tôi giật mình: không chừng có lẽ đúng. Có thể tôi đã bị hoang tưởng chứ không phải là tôi đã tìm lại được cách nhìn tuổi thơ như tôi nghĩ. Nhưng nếu tôi bị bệnh hoang tưởng thì sao trước mặt thằng em, tôi lại có thể luận giải khúc chiết đến thế được? Hay sự hoang tưởng có nhiều dạng mà dạng của tôi là dạng không có nguồn gốc bệnh lý?
Tôi bình tâm nghĩ lại: Một người lớn hoang tưởng thì cũng tương đương với tâm hồn trẻ thơ, có gì khác nhau đâu? Được rồi! Tôi mãn nguyện!
 ***
Tôi đã chuẩn bị xong hành trang, đã chọn được một điểm xuất phát, đã xác định được phương hướng cuộc hành trình và đã mường tượng đựơc một con đường dành riêng cho những kẻ như tôi - những gã nhà quê ít học nhưng quá tò mò nên cũng dám phiêu lưu. Sau này tôi sẽ phải đặt tên cho con đường ấy. Còn bây giờ, hỡi anh em bằng hữu, ai thích quan chiêm một cái gì đó trong hoang đường thì hãy theo tôi! Chúng ta lên đường!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét